Thứ Năm, 30 tháng 10, 2014

Rượu Đế Trong văn Hóa Tây Nam Bộ

Khó có thể biết được rượu ra đời từ lúc nào, ở đâu, song nói về rượu, về tác dụng chữa bệnh, về văn hóa uống rượu thì tất cả các dân tộc trên thế giới đều có. Ở Việt Nam, rượu gắn với sinh hoạt cộng đồng, với các nghi lễ, hội hè, đình đám, với những lời thề ước, nhưng nếu uống rượu quá đà cũng gây nhiều phiền lụy… Chính vì vậy, chẳng biết tự bao giờ, rượu đã đi đời sống văn hóa của người bình dân và bằng cách này hay cách khác nó đã tồn tại trong cộng đồng người Việt nói chung, trong đó có người dân đồng bằng sông nước Cửu Long . Lịch sử hình thành vùng đất này gắn liền với bước chân những người đi mở cõi thế kỷ XVII – XVIII
Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu cũng sợ con cá vùng cũng kinh
nhauGắn liền với đời sống sinh hoạt hàng ngày thức uống của họ ngoài nước mưa, nước giếng, họ còn dùng trà hay các thứ rễ cây, lá cây pha nước để giải khát. Rượu cũng là loại đồ uống không thể thiếu đối với người lao động bình dân. Rượu là đồ uống, nhưng không phải là nước, chức năng của nó không đơn thuần chỉ là giải khát, và đương nhiên rượu cũng được chế biến kỳ công hơn là nước có sẵn từ tự nhiên. Xét về góc độ văn hóa, rượu đã tạo nên một đặc trưng thú vị!
1. Cách nấu rượu: Để có được rượu ngon tuyệt hảo người ta phải chăm chút từng hạt nếp, cục men, từng động tác chưng cất, pha chế để được loại rượu ngon nhất. Chọn nếp là bước quan trọng đầu tiên. Muốn được rượu trong thì nếp phải ”rặt”, tuyệt đối không được lộn hạt gạo nào. Thường là nếp mỡ và nếp mù u và nếp than đen tuyền, … Sau khi chọn nếp ngon, đem nấu thành cơm nếp, để nguội (còn âm ấm) thì rắc men vào (giã nhuyễn) vào ủ kín. Men rượu nguyên thủy được mài rễ thảo mộc hoặc men bí truyền chế từ các vị thuốc bắc: quế khâu, đinh hương, trần bì, quế chi, đại hồi cộng thêm nhãn lồng, trầu hương… Sau ba đêm, men đã lên, người ta chan nước vào ủ kín lại như lúc đầu, để thêm ba đêm sau nữa thì nấu.
Lò nấu rượu đắp bằng đất sét. Cơm rượu được cho vào trã (loại nồi bằng đất nung lớn), dùng rơm, rạ, cũi khô đun lên, hỗn hợp cơm rượu có nước bay hơi, người ta cho hơi nước ấy gặp lạnh (nước lạnh này chứa trên cái diệm sành) thì ngưng lại thành giọt rượu, cứ thế hứng vào chai, ve, can nhựa, …
Lúc trước nấu bằng rơm, trấu nên phải mất cả ngày trời mới xong một mẻ rượu, nay nấu bằng than đá nên nhanh hơn, chỉ cần khoảng 4 tiếng đồng hồ là xong (một tiếng đun sôi, 3 tiếng chưng cất rượu).
Rượu lấy được lúc đầu gọi là rượu gốc, nước trong veo, cao độ, cứ thế dần về sau nước rượu nhạt dần. Khi nấu xong, tùy theo yêu cầu và mục đích dùng người ta pha “nước gốc” và “nước ngọn” chung vào nhau, cũng có khi để nguyên rượu gốc mà dùng, hay pha thêm nước cho nồng độ lạt bớt đi!
Xin được nói thêm ngày nay, nhiều người đã thay nếp bằng gạo để nấu rượu, chất lượng của loại rượu này đương nhiên thấp hơn so với nguyên thủy!
2. Tên gọi các loại rượu: Rượu nấu bằng nếp như chúng tôi đã miêu tả nên tên gọi đầu tiên của nó là rượu nép. Dân gian còn gọi bằng nhiều tên khác như rượu trắng, rượu đế, …
-Rượu trắng là dựa vào màu sắc của nước rượu. Cũng loại rượu ấy, nhưng nhiều người nấu nếp than (loại nếp hạt đen) làm cơm rượu (xin nói thêm cơm rượu này cũng là cơm nếp ngon, được vò viên tròn nhỏ cỡ đầu ngón chân cái, ủ men, chan nước đường, dùng ăn chơi lũ nhàn nhã, thức ăn này có loại men riêng, còn “cơm rượu” dùng để nấu rượu ít người “ăn nổi” bởi nồng độ men của nó “nặng” hơn nhiều!), nghiền nát cho thêm nước có đường vào pha chung tạo thành loại rượu có màu hồng sẫm, được gọi là rượu nếp than.
-Rượu nếp than đậm đặc rồi chôn xuống đất, … mấy tháng đào lên uống rất ngon hơn nhiều lần, dân nhậu gọi là “lão tửu”!
-Rượu trắng, rượu nếp than còn có những tên gọi khác: rượu đế, nước mắt quê hương!
Tên gọi rượu đế được nhiều bậc lão nông tri điền miệt này giải thích rằng: Đầu thập niên 1860, Pháp đến xâm chiếm vùng Sài Gòn – Gia Định, sau đó lấn dần toàn cõi Nam kỳ lục tỉnh. Chúng ngang nhiên “cấm người bản xứ nấu rượu” nhưng lại buộc dân ta uống “rượu Tây!”. Bà con ta tất nhiên là không chịu để bọn thực dân đô hộ lộng quyền nên quyết định … nấu rượu lậu. Rượu lậu vừa rẻ lại vừa ngon hơn rượu của Nhà nước thực dân, cơm rượu được cho vào các hủ sành rồi đem giấu trong những lùm tranh, lùm đế ở xa nhà, hoặc khi thấy Tây đoan đến bắt, nghe động thì bê tất cả nồi rượu, bình rượu chạy vội dấu dưới đồng cỏ hoang dại mọc toàn cây đế, một loài cây giống cỏ năn, cỏ lác, cỏ tranh, hay lau sậy mọc cao vút đầu. Từ đó, dân gian gọi rượu này là rượu đế!
Nhưng xem ra không mấy bợm nhậu hiểu tường tần nguyên lai của hai tiếng rượu đế này. Họ chỉ gọi rượu đế là rượu vua. Dân nhậu tự xưng là con Ngọc Hoàng, mà con Ngọc Hoàng thì không phải sợ ai cả!
Hiu hiu gió thổi đầu non
Mấy thằng cha uống rượu là con Ngọc Hoàng
Đặc sản rượu đế có rượu đế Gò Đen. Gò Đen là một địa danh Bến Lức, tỉnh Long An. Rượu đế Gò Đen có từ thời Pháp thuộc. Vì sao Gò Đen lại được coi là ”đệ nhất tửu”? Truyền rằng, trước đây, dân Gò Đen nấu rượu bằng tất cả cái tâm.
Người Gò Đen cẩn thận trong các bước nấu rượu. Nếp được ngâm đến ngày thứ bảy thì mới bắt đầu cất rượu. Rượu đế Gò Đen dễ nhận biết. Dân sành rượu thường dùng cách lắc chai để nhận biết rượu ngon hay dở. Rượu ngon khi lắc chai sẽ nổi bọt và phân thành 3 tầng rõ rệt, bọt lại chậm tan.
”Mỹ tửu” Gò Đen ”chinh phục” người uống bởi rượu trong như nước mưa. Mỗi khi rót rượu vào ly, tiếng rượu chảy, vị cay nồng đã đủ làm say, làm khao khát lòng người uống.
Để đánh giá chất lượng rượu, người bình dân miệt này còn truyền tai câu hát:
Rượu ngon bởi vì men nồng
Người khôn bởi vị giống dòng mới khôn.
Rượu đế được đem ngâm với bìm bịp (một loài chim mà theo kinh nghiệm dân gian là một phương thuốc có tác dụng bổ thận tráng dương), gọi là rượu bìm bịp, ngâm với con tắc kè (loài bò sát, đã được thẩm định là có chức năng chữa bệnh gân cốt) gọi là rượu tắc kè, … Tương tự thế, rượu đế ngâm với chuối hột (trái chuối hột chín, loại chuối rừng cho trái nhỏ, vỏ dày, nhiều hột đen, được đem về ép phơi khô, nướng sơ qua lửa than rồi cho vào keo đổ rượu đế vào ngâm) một tháng sau, rượu có màu đỏ au, gọi là rượu chuối hột; rượu ngâm với rễ nhàu, hoặc trái nhàu chín tạo nên màu vàng nhạt, gọi là rượu nhàu! (Nhàu ở đây còn được bợm nhậu chơi chữ, uống vô … nhào luôn!)
Riêng rượu rắn thì có nhiều loại tam xà, ngũ xà, nhiều khi người sành điệu chỉ ngâm trong hủ duy nhất một con … hổ mang chúa! Rượu ngâm thuốc bắc cũng rất đa dạng, những năm gần đây dân miệt này cũng rất hảo loại … Minh Mạng thang!
Ngoài những thứ rượu đế ngâm hoặc để nguyên chất uống, nhiều người còn ngâm rượu để bóp chân tay, gân cốt, … thứ này không phổ biến, thường chỉ có các thầy thuốc nam, hoặc các thầy dạy võ mới sử dụng!
3. Rượu trong lễ nghi, phong tục: đối với người miệt sông nước, bất cứ nghi lễ nào cũng không thể thiếu … rượu!
Đối với đời người, lễ đầy tháng, thôi nôi cho trẻ con mới sinh cũng dùng rượu để cúngmười hai mụ bà, mười ba đức thầy, cầu mong cho trẻ mau lớn, khỏe mạnh!
Trong lễ cưới, hỏi của nam nữ thanh niên, rượu luôn luôn có mặt. Cách đây gần thế kỷ, khi đi mời khách đến dự đám cưới, đám hỏi, nhiều gia đình khá giả, hiểu lễ nghĩa thường cho người mặc áo dài, chít khăn đóng, mang theo mâm trầu rượu đến nơi thì kính cẩn rót rượu mời gia chủ và sau đó mới trình thưa chuyện. Ngày nay, trong thiệp hồng báo tin vui, người ta vẫn dùng câu … Vui lòng đến dự tiệc RƯỢU, chung vui cùng gia đình chúng tôi, …Trong mọi hoạt động lễ nghi của đám cưới, đám nói, luôn luôn có một chiếc bình nhỏ và hai chiếc chung nhỏ (gọi là mâm trầu rượu). Muốn nói gì, thưa chuyện gì chủ lễ đều phải rót rượu để trình rồi mới thưa chuyện, …
Cũng từ đó mà đôi tân lang tân giai nhân vui mừng ra mặt khi dâng chung rượu cho đấng sanh thành:
Rượu lưu li chân quỳ tay rót,
Cha mẹ uống rồi nối gót theo anh.
Trong lễ tang, rượu cũng được dùng cúng tế, lễ cúng đám giỗ thì sau ba tuần rượu, hai tuần trà mới được … lui mâm! Khi đốt áo quần vàng mả, đồ đốt cháy hết người ta rưới vào đó ít rượu với tâm niệm để người dưới suối vàng … nhận lễ!
Trong các lễ hội cúng đình, cúng miễu, rượu cũng luôn luôn có mặt, và giữ vai trò quan trọng về mặt nghi lễ! (Trừ lễ Phật ở chùa, bởi rượu là thứ giới cấm của Phật giáo)
Rượu ngon chắt để bàn thờ
Ba bốn năm không lạt (nhạt), sao giờ lạt đi?
4. Rượu để uống
Như chúng tôi vừa nói, rượu chủ yếu là để uống. Các hình thức uống rượu, mục đích của việc uống rượu vốn rất đa dạng, phong phú.
4.1. Uống rượu … một mình: chỉ một người, một bình rượu đế nhâm nhi để giản gân cốt sau một ngày đào mương, vét cỏ, làm vườn, cấy ruộng, … Hay người trong cuộc có chuyện buồn đau trong đời không thể bày tỏ cùng cộng đồng, người ta cũng mượn rượu để giải khuây.
Hồ Xuân Hương ngày trước đã có câu thơ nổi tiếng miêu tả tình cảnh đó: Chén rượu hương đưa say lại tỉnh (Tự tình) Rượu càng uống cảng tỉnh, mới là nỗi đau lên đã lên đến tận cùng!
4.2. Rượu uống với bạn bè để vui vẻ: dân gian thường nói trà tam rượu tứ. Uống rượu, ít khi một mình. Thường mâm rượu có hai, ba, bốn, … thậm chí cả … chục người cùng nhau “nâng ly, cạn chén”. Người dân miệt sông nước Cửu Long có đặc tính hào phóng mỗi khi rượu đã vào. Có khi lúc đầu mâm rượu bày trước cửa sân nhà chỉ vài người, sau một hồi, … gặp bất cứ ai đi ngang (không phân biệt quen hay lạ) đều được gia chủ mời vô … uống! Chuyện cười ra nước mắt cũng xảy ra: những vị khách “trên trời rơi xuống” này, uống đã, say lăn ra ngủ. Khi tỉnh lại cả chủ lẫn khách không ai nhận ra ai, bởi họ chẳng … quen nhau!
Mỗi khi có khách ở xa đến chơi thì gần như chắc chắn sẽ có … nhậu, bởi khách đến nhà không gà thì vịt, vậy mà!
Đồ ăn, thức nhấm sang thì:
Bắt con cá lóc nướng trui
Làm mâm rượu trắng đãi người phương xa.
Nhiều lúc cao hứng chỉ vài cần vài con khô cá sặt, khô cá trê, thậm chí chỉ là trái chuối chát, trái khế, trái me dốt với chén mắm ruốc, vài cục muối, mấy trái ớt, … họ cũng nhậu được! Về chỗ nhậu thì trong nhà, ngoài vườn, trên bờ mương, đầu ruộng, … miễn là có chỗ ngồi được là xong.
Ở miệt này, thường uống bằng ly (loại dùng uống trà), kích cỡ lớn nhỏ khác nhau. Uống rượu cũng có nhiều cách. Chơi nguyên táo, tức là uống cạn cả ly; cưa hai cho đậm đà tình nghĩa, tức là người trước uống nửa ly, người sau uống nửa ly còn lại. Theo cách uống này, thì ai lớn tuổi hơn được kính trọng mời uống, người nhỏ hơn uống sau. Có khi, để tỏ rõ sự sòng phẳng trong bàn nhậu họ tự giao ai bưng ly nấy uống, như vậy đỡ tốn tiền đò! (tức chuyền tới chuyền lui)
Nếu như ở nhiều nơi ngoài miền Bắc trong mâm rượu, mỗi người được “phân” một chung, rượu rót đầy ai muốn uống sao thì tùy lượng, còn ở vùng này ít khi uống rượu cách đó, cả mâm chỉ dùng chung một ly. Bàn rượu cử “chủ xị” làm người cầm chai rót và chuyền. Chủ xị thường phải công bằng, chuyền cho đủ và không được quên ai, kỵ nhất là “quên mình” (nếu xảy ra, sẽ bị coi là ăn gian, bị phạt nặng). Muốn “từ chức”, chủ xị phải tự uống 3 ly, ai cãi chủ xị, nếu sai cũng bị phạt 3 ly, nếu chủ xị (tức bỏ qua ai đó trong mâm), sẽ bị phạt, … Uống rượu thì phải cạn đáy, ai uống còn sót lại chút ít, bị cho là “kê tán” … sẽ bị cười, bị mất danh của … người nhậu!
Ai đến sau, hoặc về trước cũng bị phạt theo “luật” vào ba, ra bảy (đi trễ uống liên tiếp 3 ly, về trước thì phải “nốc” … 7 ly!), …
Đánh giá tửu lượng, dân ăn nhậu truyền nhau bài vè:
Một ly nhâm nhi tình bạn
Hai ly giải cạn tình sầu
Ba ly mũi chảy tới râu
Bốn ly nằm đâu gục đó
Năm ly cho chó ăn chè
Sáu ly ai nói nấy nghe
Bảy ly le le lội nước,
Tám ly chân bước chân quỳ
Chín ly còn gì mà kể
Mười ly khiêng để xuống xuồng….
Xem ra, đây chỉ là bài vè dùng để chế nhạo người có tửu lượng yếu, mới có bảy, tám, … ly đã bước, đã quỳ! Sự thật, có người tửu lượng đến 1 – 2 lít là chuyện … thường! (đương nhiên còn tùy theo chất lượng nồng độ của rượu nữa!)
Ngoài uống, rượu còn dùng pha với để tắm cho trẻ con mà dân gian cho là phòng gió độc, chóng trúng nước! Rượu dùng để tẩy rửa những nơi có mùi xú khí!
5. Mấy điều suy ngẫm
5.1 Những nét đẹp
Rượu trở thành “đối tượng” để người hiện tại giao tiếp với người khuất mặt. Mượn men rượu nhờ thánh thần chứng kiến con cháu hiện tiền làm ăn, chung sống vẹn tình trọn nghĩa.
Giúp con người thêm mạnh mẽ giữa vùng hoang vu thời mở cõi, giúp con người khuây khỏa tinh thần, …
Rượu thắt chặt tình thâm thủ túc, bằng hữu, người lạ hóa quen, nhiều khi nhờ một ly rượu … tình cờ.
Trong bữa rượu sự công bằng, nét đẹp trọng tình giữ nghĩa vẫn còn được lưu giữ qua từng ly rượu mời, rượu uống
Rượu giúp con người thêm khỏe mạnh nếu uống với lưu lượng vừa phải, hợp lý.
Rượu cũng mang lại những giá trị kinh tế cho người miệt đồng. Hèm rượu được nông dân dùng nuôi heo tăng thêm thu nhập, nhiều gia đình thoát nghèo nhờ mô hình đó, …
5.2. Những mặt hạn chế
Không phải nói nhiều, dân gian đã cảnh báo ngay:
Rượu nhạt uống lắm cũng say,
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm
Điều thường gặp là “rượu vào, lời ra”, nói nhiều, nói dài nhưng không ý thức hết điều đã nói, gây chuyện “đa ngôn đa quá” (nhiều lời thì càng nhiều lầm lỗi). Chí ít, cũng phiền nhiễu đến người xung quanh:
Ở đời chẳng biết sợ ai,
Sợ thằng say rượu nói dai tối ngày.
Sai be bét không làm chủ được mình, gây rối trật tự, … thậm chí dẫn tới phạm pháp, để lại những hậu quả không lường!
Nhiều người, mượn rượu để đánh giá con người “nam vô tửu như kỳ vô phong” một cách cực đoan, khích bác, vô lý, gây mất đoàn kết, hiềm khích không trọn vẹn của tình làng nghĩa xóm!
Uống rượu không điều độ, bỏ công ăn việc làm, hao tiền tốn của thiệt hại không nhỏ về kinh tế. Dân gian phê phán những con người ấy, thế này:
Rượu chè, cờ bạc lu bù,
Hết tiền đã có mẹ thằng cu bán hàng
Hay:
Giàu đâu những kẻ ngủ trưa
Sang đâu những kẻ say sưa tối ngày
Về sức khỏe, rượu gây nhiều tác hại nghiêm trọng cho sức khỏe cho con người, các chứng bệnh nan y phần lớn có nguyên nhân do rượu gây nên!
Không thể tách rượu ra khỏi đời sống, nó đã trở thành nét sinh hoạt độc đáo, thú vị mà người bình dân tạo nên. Vấn đề là làm sao người dùng đủ “tỉnh táo” sử dụng nó một cách hiệu quả và hợp lý nhất!
Nguồn: vanchuongviet.org

Bánh Quê Một Thuở

Những con cá, con tôm, hạt gạo, hạt nếp dẽo thơm của thôn quê không chỉ để làm no lòng mà còn trôi dạt vào miền ký ức của bao người về các loại bánh quê thơm thảo. Những loại bánh được làm ra từ hoa trái đồng quê mộc mạc, đơn sơ như bánh lá, bánh chối hấp, bánh khọt… và nhiều loại bánh quê khác thật ngọt ngào để khi đi xa cho ta nhớ về mái lá quê nhà…
banhque2Khi những cơn mưa già trút xuống miền châu thổ cũng là lúc lá mơ xanh đâm chồi và leo lên bất cứ thứ cây gì mà chúng gặp. Đó cũng là lúc các bà nội trợ ở thôn quê chuẩn bị làm món bánh lá. Xin được nói thêm, lá mơ xanh là loại dây leo mọc tự nhiên, lá nhỏ, chiều dài bằng một ngón tay, có mùi gần giống lá mơ lông, nhưng có vị hăn hơn rất nhiều. Lá mơ xanh đem về, xắc nhuyễn, xay chung với bột gạo. Rất lạ là lá mơ xanh chỉ dùng để làm bánh lá và đã nói bánh lá là không thể thiếu cái mùi vị đặc trưng này. Sau khi dằn bột cho ráo thì chỉ việc nắn bột thật mõng vào những chiếc lá dừa nước tươi đã rửa sạch. Để cục bột phía trên đầu chiếc lá và hai ngón tay cái bóp đều hai bên thật nhanh và cứ thế bột dính đều, thật mỏng trên mặt chiếc lá dừa nước.
Chỉ cần hấp khoảng 10 phút sau là bánh chín. Ở quê, trẻ con chờ bánh chín ngay khi vừa chuẩn bị làm. Vì thế, bánh vừa lấy ra có lẽ trẻ con là người đầu tiên được nếm thử. Còn ăn bánh lá đúng cách như người lớn thì phải gở bánh ra bỏ vào dĩa, chan nước cốt dừa béo ngậy, đặc sệt vào là cứ thế mà thưởng thức. Cái mùi của lá, của bột và đặc biệt là cái mùi của lá mơ xanh hòa quyện cùng nước cốt dừa có bỏ thêm một ít hành lá sẽ cho ta nhớ mãi về những buổi xế trưa tuyệt vời như thế!
banhque1Ở miền Tây – nơi những vùng nông thôn hẻo lánh, xa chợ búa, nên người ta hay nghĩ ra cách làm bánh bằng nguyên liệu có sẵn. Chài cá, cất vó được một mớ tép không đủ để làm nhưn bánh xèo cũng không sao, ít thì đổ bánh khọt vậy! Bột bánh khọt cũng chỉ là bột gạo pha với nước cốt dừa hơi loãng với liều lượng thích hợp. Hành lá xắt nhỏ, bỏ vào. Nêm một chút muối đường cho có vị mằn mặn và ngòn ngọt trong bột. Bánh được đổ trong cái khuôn đất, hoặc khuôn bằng gang. Mỗi khuôn có thể đổ được từ 8-12 cái bánh
Khuôn bánh khọt để thật nóng, thoa dầu hay mỡ, đổ bột lần lượt vào các ô nhỏ ở trong rồi bỏ 1 con tép bạc vào từng ô nhỏ ấy. Đậy nắp lại chờ bánh hơi se mặt, rưới thêm lên trên mỗi bánh một lớp nước cốt dừa hoặc một nhúm đậu xanh nấu chín. Thăm chừng bánh chuyển từ màu đục sang trong, rìa bánh rám vàng là bánh đã chín. Dùng chiếc muỗng khượi nhè nhẹ là lấy bánh ra dễ dàng. Bánh lấy ra, để vào dĩa, từng cái bánh mỏng mảnh, tròn nhỏ xinh xinh. Tô điểm thêm trên mặt bánh chỉ là lớp nước dừa sánh đặc màu trắng đục tạo điểm nhấn và ít đậu xanh nổi bật trên màu trắng của bánh làm duyên. Bánh chấm với nước mắm làm chua ngọt dịu dịu, ăn kèm với các loại rau đồng. Bánh khọt của miền Tây dung dị lắm! Cách làm bánh cũng như các thành phần đi kèm rất ư đơn giản. Vậy mà, chính cái chơn chất đó như một nét duyên thầm lại đi sâu vào lòng người, để mà nhớ mãi…
banhqueỞ vùng thôn quê miền Tây, mỗi gia đình dù giàu nghèo gì đều có trong nhà ít nhất một khuôn bánh khọt, một cái xửng hấp, một bàn nạo dừa và còn nhiều dụng cụ khác để làm bánh. Mỗi người phụ nữ ở đây không ít hơn  một lần trong đời từng ngồi trước cối xay bột, chiếc bàn nạo dừa, xửng hấp hay khuôn bánh… để làm ra những món ngon cho người thân của mình. Có cầu kỳ gì cái bánh quê dân dã này. Ai cũng có thể làm được và ăn vào cảm thấy ngon miệng. Chỉ cần bước vào bếp xúc ít lon gạo xay làm bột, bước ra sân hái ít trái dừa, sẵn tay ngắt ít tép hành lá, ít trái ớt, trái chanh… là thành bánh rồi! Chính từ cái nét mộc mạc, giản dị, chân quê ấy đã nuôi lớn khôn biết bao người từ bàn tay của bà của mẹ  – để dù có đi đâu cũng không làm lạc mất đi trong ký ức mình – về bánh quê một thuở!…
Nguồn : Nguyễn Thường

Cá Thiểu Kho Tiêu

Cùng với hệ thống sông ngòi chằng chịt, Miền Tây là nơi giàu nguồn lợi thuỷ sản nước ngọt. Trong đó có nhiều loại tạo nên hương vị riêng biệt và trở thành đặc sản như canh chua cá linh,cá linh kho me, cá lóc nướng trui, cá chạch kho nghệ, cá heo kho tộ…Bên cạnh đó cá thiểu kho tiêu cũng là một món ăn dân dã làm người ăn nhớ mãi.
cá thiểu
Cá thiểu loài cá ăn nổi và di cư thành đàn lớn, phân bố chủ yếu ở Lào, Malaysia, Thái Lan, Myanmar, Campuchia và Viêt Nam. Cá đẻ trứng đầu mùa lũ bắt đầu từ khoảng tháng 5 – 7 ở khu vực trung lưu sông Mekong. Trứng và ấu trùng trôi theo dòng nước di cư vào vùng ngập của hệ thống sông rạch vùng đồng bằng Miền Tây Nam Bộ.
Cá thiểu xuất hiện nhiều và lớn vào cuối mùa nước nổi (khoảng tháng 9 – 10 âm lịch) khi gió bấc liu riu thổi lạnh. Đây cũng là lúc khắp những miệng kênh, vàm, rạch và cả ngoài sông sâu đâu đâu cũng thấy dân chài lưới ì xèo. Và người ta bắt cá thiểu bằng các ngư cụ như: chài, lưới giăng, lưới đăng mé, lưới thả, cất đống chà, chài rê, đóng đáy..v..v..
Cá thiểu còn tươi, dùng dao hoặc kéo bỏ ruột (không đánh vảy), rửa sạch, để ráo. Ướp cá với gia vị (1 ít đường + nước mắm ) vừa khẩu vị và cho vào nồi đất nung. Để lửa liu riu cho nước sôi và rút sền sệt nhừa nhựa vào cá, thịt cá chín mềm, cho chút tép mỡ hoặc dầu ăn, tiêu cay và nhắc xuống. Nhớ thêm một ít mỡ (dầu ăn), một ít tiêu xay trước khi múc ra dĩa là xong.
Có dịp đến miền Tây vào mùa gió bấc se se lạnh và thưởng thức món cá thiểu kho tiêu bạn sẽ cảm nhận được vị thơm ngon, béo ngậy với mùi vị rất riêng biệt…Đó là mùi vị thiên nhiên hoang dã của miền quê được kết tinh, hòa quyện, tạo thành một khẩu vị lạ kỳ hấp dẫn khiến ta không thể không nhớ mãi…

Thứ Tư, 29 tháng 10, 2014

Văn Hóa Ẩm Thực Của Người Miền Tây

Ẩm thực là tiếng dùng khái quát nói về việc ăn và uống. Văn hóa ẩm thực bao gồm cả cách chế biến, bày biện và thưởng thức từng món ăn, thức uống, từ đơn giản, đạm bạc đến cầu kỳ mỹ vị. Chung nhất là vậy, song khi nói đến văn hóa ẩm thực ở một vùng/miền nào đó thì nhất thiết phải nói lên “đặc điểm tình hình” mới có thể nêu được bản sắc văn hóa đặc trưng cụ thể của vùng/miền ấy.
văn hóa ẩm thực miền tây
Ở Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng đâu đâu cũng đất rộng sông dài, nơi nào cũng kinh rạch chằng chịt lại lắm lung, hồ, búng, láng…, không nơi nào không nhung nhúc cá, tôm, rắn, cua, rùa, ếch… đã vậy còn có cả rừng già, rừng thưa, đầy dẫy chim muông, thú to, thú nhỏ. Phía này thì “năm non bảy núi” trập trùng, không biết cơ man nào là “sơn hào”, còn phía nọ thì biển Đông, biển Tây, toàn là “hải vị”!
Nhưng để có được một kho báu “trên cơm dưới cá”, người Nam Bộ nói chung và người miền Tây nói riêng không thể không năng động sáng tạo trong gieo trồng, đánh bắt và khai thác chế biến. Cho dù “làm chơi ăn thiệt” người miền Tây bao đời nay đã đầu tư không biết bao nhiêu là tim, là óc mới có được thành quả khả quan đầy trí tuệ như ngày hôm nay. Nhờ được kế thừa, phát huy và liên tiếp khám phá, sáng tạo mà văn hóa ẩm thực ở miền Tây ngày càng phong phú, đa dạng. Từ đó, miếng ăn và “thói ăn” của người miền Tây có những cái rất riêng. Nhưng cái riêng ấy không ngoài cái chung của dân tộc Việt Nam nghìn năm văn hiến:
- Ăn để sống chứ không phải sống để ăn.
– Ăn theo thuở ở theo thời.
– Ăn coi nồi ngồi coi hướng.
– Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm…
Do đặc điểm địa hình và sinh hoạt kinh tế, văn hóa Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng đã định hình nền văn minh sông nước, ở đó nguồn lương thực – thực phẩm chính là lúa, cá và rau quả kể cả các loại rau đồng, rau rừng. Từ sự phong phú, dư dật ấy mà trải suốt quá trình khai hoang dựng nghiệp, món ăn, thức uống hàng ngày của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng cho dù trong hoàn cảnh nào, thiếu thốn đạm bạc, hay đầy đủ ngỏa nguê, họ không thể không khám phá và sáng tạo nhiều phương thức nuôi trồng, đánh bắt để chế biến vô số miếng ngon một cách có bài bản từ những đặc sản của địa phương.
Với phong cách thưởng thức “mùa nào thức nấy” và quan niệm “ăn để mà sống” hầu có đủ dưỡng chất tái tạo sức lao động, họ đã tỏ ra rất sành điệu trong việc phối hợp các yêu cầu cao nhất của miếng ăn: thơm, ngon, bổ, khỏe. Câu nói “ăn được ngủ được là tiên” rất được người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng quan tâm, xem trọng, cho nên ngồi vào bàn ăn, khi chủ nhà giới thiệu món nào, dù là cá thịt hay rau quả, kể cả rượu, họ thường nhắc nói: ăn món này bổ xương, hoặc trị suy dinh dưỡng, bổ gan, bổ phổi…; rượu thuốc này giải quyết được bệnh “tê bại” nhức mỏi; tráng dương, bổ thận v.v… Và không quên “động viên” gắp đũa nằm, hoặc dùng muỗng múc (mới được nhiều), cứ tự nhiên, hãy ăn thiệt tình “đừng mắc cỡ”, thậm chí ép ăn! Dùng bữa, thấy khách ăn nhiều, ngon miệng chủ nhà không thể không cảm thấy sung sướng, hài lòng.
Khẩu vị của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng cũng rất khác biệt: gì ra nấy! Mặn thì phải mặn quéo lưỡi (như nước mắm phải nguyên chất và nhiều, chấm mới “dính”; kho quẹt phải kho cho có cát tức có đóng váng muối); ăn cay thì phải gừng già, cũng không thể thiếu ớt, mà ớt thì chọn loại ớt cay xé, hít hà (cắn trái ớt, nhai mà môi không giựt giựt, lỗ tai không nghe kêu “cái rắc”, hoặc chưa chảy nước mắt thì dường như chưa… đã!), ngọt thì ngọt như chè….
Nói đến cay mà không đề cập và nghiên cứu khẩu vị của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng khi ăn tiêu hột hoặc tiêu xay là cả một sự thiếu sót, bởi tiêu đâu chỉ là cay mà còn ngọt! Vì sao “Ví dầu cá lóc nấu canh/Bỏ tiêu cho ngọt bỏ hành cho thơm”? Phải hết sức tinh tế mới hiểu được trọn vẹn bản chất của tiêu. Thật vậy, nếu ta thử nghiệm: nêm hai tô canh (hoặc cá kho) vẫn với các thứ gia vị giống nhau nhưng nếu một trong hai tô canh không “bỏ tiêu” thì nhất định tô ấy sẽ thiếu chất ngọt ngay – cho dù đã có đường, bột ngọt, nhưng vẫn thấy không ngọt đặc biệt như tô có bỏ tiêu! Còn chua thì chua cho nhăn mặt mới “đã thèm”; ngọt (chè) thì phải ngọt ngây, ngọt gắt; béo thì béo ngậy; đắng thì phải đắng như mật (thậm chí ăn cả mật cá, cho là “ngọt”!); còn nóng thì phải “nóng hổi vừa thổi vừa ăn”…
Vì sao khẩu vị người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng lại “quyết liệt” như thế? Vấn đề đặt ra chẳng ai giải thích được tại sao ngoại trừ người miền Tây lớp trước hoặc những nhà nghiên cứu về văn hóa ẩm thực vùng đất này. Đó chẳng qua là dấu ấn sắc nét thời khai phá. Thuở ấy, con người ở đây một mặt phải ra sức khống chế thiên nhiên, thường xuyên đương đầu với nhiều loại thú dữ – nói chung là phải đối phó với vô vàn gian nan khổ khó, một mặt phải “tay làm hàm nhai”. Có được “ba hột” no lòng không ai không biết rằng “dẻo thơm một hột đắng cay muôn phần”, cho nên người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng không dám hoang phí làm rơi vãi hột cơm, hột gạo, mà đều xem đó như “hột ngọc”. Có cơm ăn thôi là đã mãn nguyện, dám đâu nghĩ tới chuyện vẽ viên cầu kỳ, thịnh soạn! Do thế mà chúng ta không lấy gì làm lạ khi được biết, xưa người ở vùng này có “tài” ăn mặn, rất mặn, đến nỗi “có người trong một bữa ăn, ăn hết hai ống mắm, độ hơn 20 cân, để làm trò vui trong khi đố cuộc nhau”! Còn uống thì, vẫn theo sách Gia Định thành thông chí, ông Trịnh Hoài Đức đã ghi nhận trường hợp ông Nguyễn Văn Thạch nào đó đã từng uống trà Huế (đố cuộc) bằng cách “dùng một cái vò rồng lớn miệng, rót ra bát lớn, uống luôn một hơi, mình ông mặc áo đôi, mồ hôi đổ như nước tắm, giây lát uống hết nước ấy, lấy được tiền cuộc”. Rõ ràng, uống được thật nhiều nước trà nóng sôi ngay khi mới rót ra chén mà không phỏng miệng là cả một sự tài.
Những trường hợp vừa nêu tuy cá biệt nhưng cũng đã nói lên được đặc trưng khẩu vị con người của một vùng đất. Nhưng đó là khẩu vị của ngày trước. Nay tuy đã qua rồi giai đoạn cực kỳ gian nan khổ khó, khẩu vị của họ cũng theo xu thế ăn sang mặc đẹp mà thay đổi: lạt hơn, nhưng những món ăn ghi đậm dấu ấn thời khẩn hoang vẫn hãy còn đó mà đại biểu là cá lóc nướng trui, rắn nướng lèo, mắm kho, mắm sống…
Người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng chẳng những không mặc cảm mà còn tự hào, phát huy để nhắc nhớ cội nguồn, tri ân người mở cõi. Nếu những món ăn độc đáo ấy vẫn tồn tại, vẫn hiện diện trong bữa cơm gia đình và cả trong nhà hàng sang trọng thì khẩu vị và cung cách thưởng thức cố hữu của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng vẫn được bảo lưu đến mức không thể không gây ngạc nhiên người mục kích, thí dụ như khi ăn, nhiều người không chỉ chan nước mắm vào cơm mà còn dùng muỗng húp, dường như như thế mới “đủ đô”. Và, đối với những người không quen ăn mặn có những món không cần phải chấm nước mắm, nhưng nếu trên mâm không có chén nước mắm họ sẽ cảm thấy bữa ăn mất ngon, bởi chén nước mắm là cái gì đó rất cần thiết, mà thiếu nó chịu không được! Cho nên phải có, và theo thói quen, họ vẫn đưa miếng đến chấm nhưng đó chỉ là một “động tác giả” vì hoàn toàn chưa dính một chút nước mắm nào, vậy mà ngon – không làm động tác giả như thế họ sẽ cảm thấy miếng ăn bị nhạt nhẻo!
Về nơi ăn, với những bữa cơm thường ngày trong gia đình thì tùy điều kiện không gian căn nhà rộng hay hẹp mà bố trí hợp lý: hoặc trên bàn, hoặc ngay trên sàn nhà. Nếu là bạn thân rủ nhau nhậu chơi thì có thể trải đệm dưới gốc cây trong sân vườn hay ngoài đồng, hay trên xuồng ghe tùy thích. Nhưng khi nhà có đám tiệc thì không xuề xòa mà bày biện cỗ bàn rất nghiêm chỉnh trong tinh thần quý trọng khách mời, tạo nên nét văn hóa rất riêng mà cũng rất chung, hài hòa giữa phong tục truyền thống với đặc điểm văn minh vùng sông nước, hầu từng bước hoàn thiện nền văn hóa ẩm thực độc đáo. Độc đáo vì đã biết tận dụng, khai thác và chế biến “của trời cho” một cách kịp thời theo “đơn vị tính” thời gian là “tháng”, “ngày” thậm chí “giờ”. Thật đúng như thế nếu ai đó ở vùng đầu nguồn, có việc phải đi xa nhằm vào tháng cá mờm hoặc cá linh non xuất hiện thì đành phải chịu nhịn, vì sau đó chừng một tháng cá mờm đã lớn thành cá cơm, cá linh non cũng thế. Hoặc trong một năm mới có được mấy ngày “cá ra” (nước trên đồng giựt cạn, cá rút xuống kinh, mương để ra sông), nếu người sống nghề đánh bắt thủy sản không chuẩn bị kịp mọi việc để chặn bắt cá thì xem như năm ấy bị thất thu nguồn lợi lớn. Rau trái cũng không khác. Đặc biệt đối với rau, như bông điên điển, rau dừa, rau muống… nếu hái muộn, từ lúc trời đã trưa nắng đến chiều sẽ không giòn, mất ngon, chức năng kích thích thèm ăn, ngăn chống lão hóa của rau do đó cũng bị giảm rất đáng kể.
Nguyễn Hửu Hiệp
Theo namkyluctinh.org

Dừa Nước Hồn Quê

Mắm trước, đước sau, tràm theo sát
Sau hàng dừa nước, mái nhà ai?…
Câu thơ quen thuộc ấy gợi lại nét đặc trưng của miền đất trẻ. Cây mắm làm đội quân tiên phong trên đất bãi bồi phù sa, rồi đến luợt cây đước, cây tràm bắt rễ… để sau đó lùi sâu vào kênh rạch cho những hàng dừa nước che rợp xóm làng ngay từ buổi cha ông mở cõi, khẩn hoang…
dua nuoc hon que
Người ta nói biểu tượng của làng quê Việt Nam là lũy tre làng, nhưng với cư dân miệt châu thổ Cửu Long lại chính là một rặng dừa nước ven sông, một dáng thôn nữ chèo xuồng, vài mái lá đìu hiu có khói lam chiều lãng đãng…
Có lẽ cái hồn quê sâu lắng, nên thơ ấy đã tạo nguồn cảm hứng cho tác phẩm của Nhà thơ Hoài Vũ và Nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu mang đậm chất trữ tình để ngợi ca vẽ đẹp thiên nhiên và con người trên dải đất vùng châu thổ này…
…Gió, gió nhớ thương ai mà lay bờ lá
Để bìm bịp kêu con nước lớn ròng….
Lá dừa nước không chỉ để che nắng, che mưa cho những gia đình nông thôn mà từ thời còn cơ cực người ta đã làm ra rất nhiều vật dụng phục vụ trong sinh hoạt như máng xối, gàu múc nước…
Biết bao đôi trai gái của miền quê này bện chặt yêu thương cũng từ những chiếc lá bình dị, thân quen… Dừa nước đã tuôn vào hồn quê thấm đẫm nghĩa tình, thủy chung son sắc là vậy!…
Có lẽ ở thôn quê nhiều người chắc mãi còn nhớ cái hương vị của chiếc bánh lá quê nghèo. Đó là một loại bánh được làm bằng bột gạo nắn mỏng dính trên chiếc lá dừa nước, đem hấp chín rồi ăn với nước cốt dừa. Còn trẻ con mỗi đứa lấy một lá bánh chạy khắp sân nhà vừa gỡ vừa ăn. Đơn giản thế thôi mà sao vẫn nồng nàn quá, thơm ngọt quá của tuổi thơ trong buổi trưa hè!… Trái dừa nước cũng là một phần không thể thiếu trong ký ức tuổi thơ của biết bao người nơi miền thôn dã này.
Hoa dừa rất thơm, trổ quanh năm và đậu quả sai. Một buồng dừa nước có thể chi chít đến cả trăm trái. Khi trái vừa già tới, bổ đôi ra sẽ thấy phần cơm bên trong nõn nà. Cơm dừa có mùi thơm rất lạ, người ta dùng để nấu chè hay để nguyên như vậy, bỏ đường, đá vào ăn cũng ngon không kém cơm trái thốt nốt vùng Bảy Núi (An Giang)…
Nhớ sao những chiếc bập dừa mà tuổi thơ tụm năm tụm bảy để tập bơi, tập lội…Chiều chiều, khi bìm bịp kêu nước lớn đầy sông, mỗi đứa ôm một cái bập dừa để cả đám trẻ cùng vùng vẫy, khuấy động một khúc sông quê…Sông quê còn đó những cánh buồm của thuở ban đầu cha ông ta đến đây để dựng làng, lập ấp…Vẫn còn đây khói lam chiều vấn vương trên mái lá quê nghèo…
Khúc sông quê với chiếc bập dừa để tuổi thơ tắm mát khi con nước đong đầy…Miếng cơm dừa nước, miếng bánh lá quê nghèo còn ngọt lịm nơi đầu lưỡi trong những buổi trưa hè…Tất cả, tất cả những điều ấy đã trôi vào tâm hồn ta, thấm vào miền ký ức ngọt ngào, để khi xa quê bất cứ ai cũng đau đáu ngóng về:
Chiều hôm khói bếp nhà ai
Chợt thương, chợt nhớ, chợt cay mắt mình
Hàng dừa nước mọc ven kênh
Lao xao trong gió đượm tình hồn quê!…
Theo Ký ức miền Tây

Cách Nói Của Người Miền Tây Qua Ca Dao

1. Người miền Tây Nam bộ với câu nói, tiếng cười
Hầu hết các nhà văn hoá học, dân tộc học, … đều có chung nhận định tương đối thống nhất về tính cách người Nam Bộ. Họ là những người hào hiệp trong cuộc sống, bình đẳng trong giao tiếp, ít bảo thủ.
mien tayXưa, Tây Nam bộ từ miền đất hoang vu rừng rậm, nhiều sông rạch, đầm lầy muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tợ bánh canh, dưới sông sấu rống, trên rừng cọp um, … Người nông dân Tây Nam bộ lao động cần cù, dũng cảm. Thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước cải tạo những vùng đất bát ngát nhưng phèn chua và ngập nước, sinh sống bằng nghề trồng lúa, đánh bắt cá tôm, … Ở vùng đất giồng cao hơn thì trồng cây hái trái, trồng tỉa hoa màu,… Ðể tồn tại và phát triển tất yếu các gia đình nông dân trong xóm ấp liên kết lại, lao động dần công cưu mang đùm bọc trong cái nghĩa bán anh em xa mua láng giềng gần, giúp đỡ nhau từ chén cơm manh áo, đến hột gạo của khoai. Nói chuyện thì thích ăn ngay nói thẳng, ghét ăn gian nói dóc, …
Nói chuyện phải rõ ràng, thẳng thắn:
Nước chảy cho đá lăn tròn,
Giận thì nói vậy chớ bụng còn thương em
Trong nghi lễ đính hôn, người ta gọi là đám nói. Ở đó hai bên sui gia “nói chuyện” tác thành cho đôi trẻ. Người con gái trong câu ca sau đây đã bộc lộ một suy nghĩ “táo bạo” … hết chỗ nói!
Ba nơi đi nói chẳng màng,
Chờ nơi chết vợ sẵn sàng nhảy vô
Tiếng nói không dừng lại ở chức năng kể lể, truyền đạt mà đối với họ nói còn là nghệ thuật. Độc đáo hơn chính từ lớp khẩu ngữ mộc mạc ấy, đi vào lời ngâm, câu hò, điệu lý, …, hình thành nên những vần ca dao – một thể loại trữ tình dân gian. Khám phá từ đây, phần nào chúng ta nhận thấy được bản tính của người bình dân miền đất Cửu Long giang.
2. Những cách nói của người Tây Nam bộ thể hiện qua ca dao
2.1. Về mặt ngữ âm
Thứ nhất, khi khảo sát về mặt ngữ âm, chúng tôi nhận thấy ca dao Tây Nam Bộ có nhiều hiện tượng nói trại, tức là nói lệch đi cấu tạo của âm chính trong tiếng. Từ đó, tạo nên lớp từ biến âm đa dạng trong lời nói của đồng bào. Họ không nói thuyền mà thay bằng thoàn, nhơn ngãi, nhơn ngỡi, thay cho nhân nghĩa, Châu Do thay cho Chu Du (nhân vật trong Tam Quốc diễn nghĩa), bệnh thay bằng bịnh, huê thay cho hoa, luỵ thay cho lệ, … Nguyên nhân thì có nhiều: vì kiêng huý, để kiêng dè, kính trọng, hoặc … để đơn thuần chỉ hiệp vần cho thơ,
- Phụ mẫu tình thâm,
Phu thê nhơn ngãi trượng,
Một mai anh có xa em rồi, thờ phượng mẹ cha
– Lao xao sóng bủa dưới thoàn
Vắng em một bữa ăn vàng không ngon
- Lụy xang xang đưa nàng xuống vịnh,
Anh trở lộn về nhuốm bịnh tương tư.
- Hai vừng nhựt nguyệt rành rành
Sao anh đứt đạn (đoạn) chung tình bỏ em
Thứ hai là cách nói tránh. Gặp chuyện không hay, tránh điều thô tục, người ta thường mượn từ ngữ khác để diễn đạt, ý vẫn giữ.
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình
Duyên có nhiều nghĩa, nó vốn là một từ mà nhà Phật, Từ điển tiếng Việt giải thích là “cái nợ từ kiếp trước đeo đẳng lấy nhau”. Duyên có thể hiểu là sắc đẹp của người con gái mới lớn. Theo thời gian, duyên dần tàn phai. Còn ở trường hợp này, tác giả dân gian dùng “duyên” thay cho một từ khác, chỉ nơi nhạy cảm của người con gái, cứ xem cách so sánh của chàng trai ở ngay dưới đây, giữa còn duyên sẽ cưới nàng bằng ba heo, còn mất duyên chỉ phải tốn … con mèo cụt đuôi thì giá trị của từ duyên mà người nói cố ý tránh, đã quá tường minh.
Còn duyên anh cưới ba heo
Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi
Thứ ba, nói bằng tiếng địa phương. Theo quy luật tồn tại của ngôn ngữ, ở miền Tây Nam Bộ cũng có những “đặc sản” của riêng mình.
Ngó lên tổ nễ chau mày,
Mảnh lo sự khó quên ngày muối dưa
Tổ nễ là tiếng lóng, cách tôn xưng chỉ ông bà, tổ tiên, xuất hiện khá phổ biến trong khẩu ngữ dân gian miền quê.
Phương ngữ trong câu ca sau, rất đáng chú ý:
Chiều mai chiều mốt anh cốt cây bần
Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm
Anh chàng nào đó không cho người khác đến gần người con gái anh ta đã để ý. Anh ta dùng tiếng “cốt” để nói. “Cốt” có nghĩa là đốn cây, chặt cây, từ này phổ biến trong dân gian miệt Rạch Giá – Cà Mau. Cây bần là loài thực vật mà người ta xem chỉ toàn … giống đực! (Bởi rễ bần được gọi là … cặc bần!). “Cốt” cây bần là lời cảnh báo dư sức nặng dành cho những ai ham trổ mòi với “ghe” đã có chủ!
Người Tây Nam Bộ nói hun, tức dùng mũi để … biểu lộ tình cảm không dùng hôn, không dùng môi, miệng để … làm việc hun!
Ước gì anh hoá con kiến vàng
Bò qua quay nón của nàng mà hun
Dân gian nói hiếm hiệm, nghĩa của nó là đủ rồi, là bộn bàng rồi, hay chỉ sự dư dã của một thứ nào đó, …
Muốn cúc chơi chậu tam hường,
Liễu huê hiếm hiệm dọc đường thiếu chi.
Dùng phương ngữ để nói ẩn ý, ngầm so sánh giữa chậu cúc tam hường và liễu hoa (huê) dọc đường. Từ hiếm hiệm đã làm tăng giá trị một chủ thể và cũng làm giảm đi giá trị một chủ thể, bởi nhiều, dư dã thì khó gọi … quý hiếm được! Nói hiếm hiệm tức là … không hiếm vậy!
Thứ tư, nói bằng cách mượn tiếng của người Tiều (Triều Châu), bộ phận người Hoa đã di cư và định cư ở đây từ mất thế kỷ trước. Qua thực tế điền dã, chúng tôi dẫn lại mấy câu ca ở Bạc Liêu, thế này:
- Chờ anh em hết sức chờ
Chờ cho ến xại (rau muống) lên bờ khùi hui (khai huê, tức trổ bông)
- Nào khi ến thạo, hoan tùa (Khi nào thấy hơi gió lớn thổi)
Sùn hoang nghệc láo, xuốt gùa thăm em (Gió xuôi, nước ngược ra thăm em)
- Trời mưa dít ạm hoang tùa (Trời mưa, trời tối gió to)
A hia phề chuối xuốt gùa thăm em (Anh chèo ghe ngược ra thăm em)
2.2. Về mặt ngữ nghĩa
2.2.1. Nói toạc móng heo
Nói toạc móng heo là cách nói thẳng hết những sự thật, không cần giấu giếm, che đậy.
Đầu tiên là cách nói thẳng để tỏ tình:
Gió đẩy đưa rau dừa quặn quỵu,
Anh mảng thương nàng lịu địu xuống lên
Những tiếng mang thành trắc tạo thành vần ở hai dòng thơ đã góp phần diễn tả một hiện thực của buổi đầu ngỏ lời trao ý, đồng thời nó cũng tả đúng tình cảnh khắc khổ của người chân đất chân quê!
Không xao xuyến làm sao được, bởi hình bóng của người con gái có duyên:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài bối rối dạ anh
Lẽ tất nhiên, khi con tim đã rộn ràng, người trong cuộc cần nhiều hơn nữa sự chân thật, và họ bày tỏ nỗi lòng:
Bước cẳng xuống tàu, tàu khua rổn rổn
Tàu qua Nhựt Bổn lấy nước Châu Thành
Anh với em phải nói cho rành
Để anh lên xuống nhọc nhằn thân anh
Cần lưu ý, những dòng đầu, cách dùng phương ngữ cẳng thay cho chân, hay từ tượng thanh lổn rổn như để diễn tả tâm trạng, họ chỉ mượn cớ để nói chứ không hẳn cần đúng sự thật, bởi sự thật thì làm gì có nước Châu Thành, mà nó cũng chẳng liên quan đến Nhựt Bổn! Mới hay, đó là cách tạo cớ để nói, cớ không thật nhưng lòng người thì thẳng băng như mực tàu!
Khi tương tư, họ nói mà như bày tỏ cả gan ruột với người mình yêu:
Phụ mẫu đánh anh quặt quà quặt quại,
Đem anh treo tại nhánh bần.
Rủi đứt dây mà rớt xuống,
Anh cũng lần mò kiếm em.
Lời thề được thốt lên mãnh liệt:
Chẳng thà lăn xuống giếng cái chũm
Chết ngủm rồi đời
Sống chi đây chịu chữ mồ côi
Loan xa phượng cách biết đứng ngồi với ai
Hay như:
Dao phay kề cổ, máu đổ không màng
Chết thì chịu chết, buông nàng anh không buông
Song không phải vì những lời nói ngay thẳng thế mà mọi chuyện tốt đẹp vẹn toàn, người trong cuộc đã cảnh giác:
Biển Đông gió thổi bốn mùa,
Say mê lời nói thuốc bùa không hay
Miệng đàn ông nói như tha mỡ, trơn lu, giỏi bỏ bùa các cô nhẹ dạ, vì thế, người bình dân mới gửi gắm lời khuyên ấy!
Lúc tan vỡ, cô gái đã nhận ra tất cả phũ phàng nên quyết liệt tránh xa:
Bần gie, bần liệt, diệc đau chờ mồi
Anh với em duyên nợ hết rồi
Đi tìm chỗ khác đừng ngồi kế em
Phía nam nhi chi tử cũng nhạy cảm chuyện trắc trở:
Vỗ vai con Bảy không ừ,
Hay là con Bảy giận, con Bảy từ ngãi anh
Gọi người yêu bằng con thì chân tình lắm, hành động cũng thật táo bạo, nhưng rồi anh ta chỉ nhận được sự im lặng thay cho cách trả lời từ đối tượng. Cuối cùng, có lẽ ngẫm nghĩ lại anh ta đã nhận ra sự thật!
Có trường hợp nguy hiểm hơn, ai đó, vì lý do tế nhị đã quẩn quanh, cố giấu che một sự thật, đến khi sự thật kia bị … phát hiện:
Bậu nói với qua bậu không lang chạ,
Qua bắt đặng bậu rồi, đành dạ bậu chưa
Nói huỵt tẹc để người trong cuộc không thể “đổ thừa” nữa, dù cách “đổ thừa” cho “tại” cho “bị” vốn là câu nói cửa miệng của những người … trót lỡ lầm!
Em đi lên xuống cầu dừa
Lấy ai có chửa đổ thừa cho anh
Có chửa hoang, là người hư đốn, là một chuyện động trời, có lẽ vì sự chấn động kinh khủng ấy, nên mới có chuyện “đổ thừa” nhằm tránh tội chăng?
Cũng là cách nói thẳng, ta gặp câu ca đáo để khác:
Nước ròng trong ngọn chảy ra
Thấy em chồng chết anh bôn ba qua liền
Bôn ba là tính từ chỉ sự vội vã, vội vàng trong hành động. Qua lời nói trực tiếp ấy dường như người trong cuộc đã hiểu được nỗi lòng của người nói. Chồng em chết anh vội qua ngay để … giúp đỡ! Tất nhiên là trong cảnh goá bụa, chiếc bóng một mình, có nhiều chuyện cần phải có bàn tay người đàn ông lắm! Nói thật, nói thẳng nhưng không phải là không có ẩn ý trong kiểu nói như vậy! Cảnh giác quá mức sẽ phụ lòng của người hàng xóm tốt bụng, còn nếu “ngây thơ” thì biết đâu … chấp được mối tơ thừa! Nên chăng?
2.2.2. Nói vòng vo, nói bóng nói gió
Ở trên, chúng tôi đề cập đến cách nói tránh. Đến đây, chúng tôi phân tích chi tiết hơn cách nói bóng gió, vòng vo Tam Quốc của người bình dân.
Khi gặp tình huống không nói thật được, đành phải nói xa xăm để đặt vấn đề:
Trời xanh bông trắng nhụy huỳnh
Đội ơn bà ngoại đẻ má, má đẻ mình dễ thương
Muốn khen một cô gái đẹp mà mình vừa ý, muốn tỏ tình thương, nói bằng lời thật khó, không khéo dễ bị vô duyên, chối từ, như thế, mọi việc hỏng bét. Vì thế, chàng trai đã dày công bắt cầu trong cách nói. Vừa nhớ ơn bà, vừa khen má và tất nhiên là khen cả đối tượng anh ta muốn nói đến.
Hơn nữa, với cách nói lấp lửng, vô tình anh ta đã gọi được tiếng ngoại, tiếng má của cô gái như chính cô gái hay kêu. Thông thường, cách kêu như vậy, chỉ xảy ra khi hai người đã nên vợ nên chồng. Thật là đáng khâm phục trong cách nói vòng vo!
Để nói bóng gió, người ta còn sử dụng cách nói bằng thành ngữ, điển tích
Thành ngữ: cụm từ cố định, bền vững, có tính nguyên khối về ngữ nghĩa không nhằm diễn trọn một ý, một nhận xét như tục ngữ, mà nhằm thể hiện một quan niệm dưới một hình thức sinh động, hàm súc. [2; 297]
Trong ca dao Tây Nam Bộ không ít câu sử dụng thành ngữ. Do phạm vi bài viết là khảo sát cách nói, chúng tôi chỉ xem thành ngữ nhất là thành ngữ Hán Việt như một phương tiện của lời nói chứ không đi sâu phân tích chức năng của chúng.
Đây là một cách dùng thành ngữ Hán Việt trong điệu hò:
Thiện ác đáo đầu chung hữu báo.
Cao phi viễn tẩu dã nan tàng
Từ khi anh xa cách con bạn vàng
Cơm ăn chẳng được như con chim phụng hoàng bị tên.
Dễ hiểu hơn, nói bằng thành ngữ Hán Việt và sau đó dùng lời thơ để giải thích nghĩa cho người nghe biết luôn:
Thiên sinh nhơn hà nhơn vô lộc,
Địa sinh thảo hà thảo vô căn.
Trời sinh người đều có lộc trời,
Đất thì sinh cỏ rễ chồi nào không.
Đi liền với thành ngữ là những điển tích. Điển tích (hay điển cố) là một biện pháp tu từ, ở đó tác giả sử dụng “câu chuyện” sao cho phù hợp với văn mạch mình nhằm tạo tính hàm súc cho lời văn, ý thơ. Ca dao Tây Nam Bộ cũng vậy, không hiếm những câu chuyện trong sách sử được dùng để nói:
Ai khôn bằng Tiết Đinh San,
Cũng còn mắc kế nàng Phàn Lê Huê.
Tiết Đinh San, Phàn Lê Huê là nhân vật trong bộ tiểu thuyết chương hồi Tiết Đinh San chinh Tây.
Hay câu ca khác:
Văng vẳng bên tai
Tiếng ai như tiếng con Điêu Thuyền?
Anh đây Lữ Bố kết nguyền thuở xưa
Lữ Bố, Điêu Thuyền là hai nhân vật trong Tam Quốc chí diễn nghĩa. Các tác phẩm vừa kể được dân gian gọi chung là truyện Tàu, thể loại văn học ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống người bình dân Tây Nam Bộ từ nửa đầu thế kỷ XX trở về trước.
Mượn thành ngữ, điển tích để chen vào lời nói, làm cho ý của người diễn đạt thêm sinh động, hàm súc, người tiếp nhận phải có cùng “kênh” giao tiếp thì mới tường tận vấn đề mà người nói muốn biểu đạt!
Phương tiện hỗ trợ đắc lực cho cách nói bóng gió là các biện pháp tu từ.
Một là, dùng từ đa nghĩa để chơi chữ
Em ơi hãy lấy anh thợ bào
Khom lưng ảnh đẩy cái nào cũng êm
Rất dễ dàng nhận ra chuyện thợ bào đẩy bào để bào cây, bào ván cho bóng, cho trơn, đến chuyện đẩy theo cách nói trây, dân gian gợi nên hành động của vợ chồng chốn phòng the!
Tương tự từ đẩy vừa phân tích, là từ cày sau đây:
Chồng em nào phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả này lẫn đêm
Cách nói táo bạo hơn, nhưng người nghe không thể bắt lỗi được họ:
Cu tui vừa mới mọc lông
Mượn chị cái lồng tui nhốt đỡ cu tui
Cu là con chim gáy, lồng là vật để nhốt chim. Nhưng thật tình không người nghe nào chỉ dừng cách hiểu của mình ở đó cả, …
Chúng ta hãy nghe lời một cô gái dặn người mình yêu khi chàng và nàng muốn “gần” nhau:
Chuột kêu chút chít trong rương
Anh đi cho khéo kẻo đụng giường mẹ hay
Ngày xưa cái giường của người nhà quê là loại giường chỏng đóng bằng tre già, lâu ngày thành xiêu lỏng, đụng vào đó nó kêu cót két, giống như tiếng chuột kêu chút chít. Có lẽ bà mẹ của cô gái kia đã hơn một lần chợt thức giấc, nghe tiếng chiếc giường tre kêu rúc rích, cô gái đã nhanh trí trả lời rằng đấy là do chuột ở trong rương (!). Rút kinh nghiệm, cô gái đã nhắc khéo cho tình nhân kẻo lỡ làng chuyện ân ái.
Hai là, người bình dân dùng hình thức so sánh, phúng dụ, ẩn dụ, hoán dụ, …, trong lời ca, tiếng hát.
Từ hình ảnh so sánh:
Thân em như cá rô mề
Lao xao giữa chợ biết về tay ai
Cá rô mề quá đỗi quen thuộc với vùng sông nước, ruộng đồng. Mượn nó, để ví với … thân em thì thật là dí dỏm! Tình cảnh của người con gái ngày xưa không khác gì thân cá rô nằm trong rổ nhảy rồ rồ, lao xao giữa chợ. Tinh ý hơn, người nghe còn phát hiện cá rô mề là để liên tưởng đến chỗ kín đáo nhất của người con gái, … thật là một cách nói khéo không ai bằng được người bình dân!
Đến cách nói phúng dụ, mượn lời con vật để thay lời người muốn nói:
Cóc chết nàng nhái rầu rầu
Chàng hiu đi hỏi lắc đầu hổng ưng
Con ếch ngồi ở gốc đưng
Nó kêu cái ẹo biểu ưng cho rồi
Nói vòng vo nhưng là thiệt bụng, thiệt lòng làm sao!
Rồi nói bằng ẩn dụ:
Ruộng ai thì nấy đắp bờ
Duyên ai nấy gặp đợi chờ uổng công
Câu ca tả thực cảnh của người nông dân chân lấm tay bùn. Song, ý người muốn nói chưa dừng hẳn ở đó. Ruộng và bờ liên quan nhau như vật sở hữu và người sở hữu. Vậy tình yêu, có cần phải cắm ranh, cặm cọc hay không? Có lẽ trả lời rằng “cần” phải có “bờ” có “đập” để xác lập chủ quyền, xem ra không có gì là quá đáng!
Hoặc dùng hoán dụ:
Nước chảy re re con cá he nó xoè đuôi phụng
Em có chồng rồi trong bụng anh vẫn còn thương
Mượn từ bụng để nói cả tâm tình lưu luyến của cố nhân! Lấy bộ phận để nói khái quát cho cái toàn thể là vậy.
2.2.3. Nói khó
Trong giao tiếp, hay sinh hoạt người ta thường nhắc lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Thực tế thì không phải không có những lời nói khó nghe. Mượn những câu hỏi để bộc bạch:
Gần sông cội mới ngã kề,
Tiếng tăm anh chịu, em về tay ai?
Hỏi mà không có lời đáp và chắc cũng chẳng cần ai trả lời, bởi đó là cách nói khó. Vấn đề là người nghe, cụ thể hơn là đối tượng hướng đến của giao tiếp có hiểu hay không mà thôi!
Có chồng bậu nói rằng không,
Con đâu bậu ẵm bậu bồng trên tay?
Không biết sự thể của người trong cuộc thế nào, có chịu nỗi oan Thị Kính hay không?
Nhẹ nhàng hơn, nói một cách đón ngách chặn đầu rằng:
Đá cheo leo muốn trèo sợ trợt,
Muốn nói một hai lời sợ nhột ý em?
Chia sẻ hay mỉa mai, chọc ghẹo, …, tính chất đa nghĩa ấy bộc lộ qua lời hỏi khó, dành cho người kém may mắn trong chuyện lứa đôi:
Cau già lỡ lứa bán trăm,
Chị nọ lỡ lứa biết nằm cùng ai?
Có thể tìm ra nguyên nhân của những lời hỏi khó như vậy là vì cuộc sống vốn không thiếu người có tính này, ý khác:
Bậu đừng ăn nói đảo điên,
Cái áo bậu bận cũng tiền anh cho?
Nhiều lúc, những câu hỏi trong lời nói khó đã nâng lên thành triết lý trong quan hệ giữa người với người trong xã hội:
Nước không chưn sao gọi rằng nước đứng,
Chén của người sao gọi chén chung?
Ai từng bận áo không bâu,
An cơm không đũa, ăn trầu không vôi?
Chim bay mỏi cánh chim ngơi,
Đố ai bắt đặng chim trời mới ngoan.
2.2.4. Nói cho hả dạ, nói cho đã tức
Từ nói khó chuyển sang nói cho hả, nói để trút cơn tức giận.
Miệng đuổi chim, tay cầm cần vụt
Mãn mùa rồi xí hụt anh ơi
Thế là công lao bao nhiêu tháng ngày vun quén giờ bị đem bỏ sông bỏ biển. Ai mà không buồn, không đau, không tức trào máu, nhưng biết ai chia sẻ, thôi thì cứ nói lên, hét lên cho hả hê!
Họ nói như mỉa mai, cười cho sự chua chát của thân phận mình:
Anh tưởng giếng sâu anh nối sợi dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt sợi dây
Qua tới đây không cưới được cô hai mày
Qua chèo ghe ra biển đợi nước đầy qua chèo trở vô
Bằng cách nói ngược: giếng sâu – dây cụt, rồi giếng cạn – hụt sợi dây, dường như để ám chỉ sự đổi trắng thay đen của thói đời, đã vậy, dại gì chết đi cho uổng!
Tiếng nói của sự khao khát yêu đương, tiếng nói cũng những chuyện oái oăm được dân gian thể hiện:
Con gái mười bảy mười ba
Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng
Mẹ giận mẹ phát ngang hông:
Đồ con mất nết đòi chồng suốt đêm!
Có lúc nói cho hả lòng, nói cho mọi người biết, vì chỉ cần lơ là một chút, người chủ quan đã bị bạn bè, lối xóm ra tay hãm hại:
Mảng coi con quạ rỉa lông,
Chị em lân cận giựt chồng không hay
Hướng đến đối tượng tiếp nhận chính là người mình yêu ngày trước. Nay anh đã không vẹn chung tình, anh bỏ em đi cưới vợ khác, anh hãy nghe đây:
Bần gie bần liệt đóm đậu ngọn bần
Anh đi cưới vợ em vái cho sóng thần nhận ghe
Đúng, rất chính xác, chỉ có những cô em gái quê rang quê rít, tóc dài bỏ xoã, bận áo bà ba (lời một bài dân ca ở Sóc Trăng) mới có trực tính để bật thành tiếng nói như vậy!
Với cảnh ngộ khác, một anh chàng thật tội nghiệp, trút giận:
Bờ bụi tối tăm, anh quơ nhằm cái tộ bể
Cưới vợ có chửa về thổi lửa queo râu
Thật trớ trêu, ai nghe mà chẳng cảm thông cho chuyện nhầm lẫn tai hại đó.
Với kết cấu đối đáp, ta gặp một lời chọc ghẹo của chàng trai lắm môi mép:
Trời mưa cho ướt ruộng gò
Thấy em chăn bò anh để ý thương
Cô gái chẳng vừa, tát lại ngay:
Trời mưa ướt cọng rau mương
Bò em, em giữ anh thương cái giống gì?
Độc hơn ở cách nói nước đôi, cụm từ anh thương cái giống gì vừa chỉ giống … người (là em) vừa chỉ giống … ăn cỏ! Vậy mới chết chớ!
Cọc tính hơn, cô gái lớn tiếng rủa kẻ ve vãn mình:
Dê xồm ăn lá khổ qua
Ăn nhầm lá đậu chết cha dê xồm
Đảo lại, cũng trong lời đối đáp, nhưng lần này “phần thắng” nghiêng về phía chàng trai:
Áo vắt vai đi đâu hăm hở,
Em có chồng rồi mắc cỡ lêu lêu.
Áo vắt vai anh đi dạo ruộng,
Anh có vợ rồi chẳng chuộng bậu đâu.
Tiếng nói uất nghẹn còn hướng đến những đối tượng đã gây ra nhiều chuyện phiền toái:
Quất ông tơ cái trót
Ổng nhảy tót lên ngọn cây bần
Biểu ông se mối chỉ năm bảy lần, ổng không se
2.2.5. Nói cà rỡn
Cà rỡn là lời nói với chức năng đùa vui, không thể hiển sự giọng cao thấp, cạnh khoé. Chàng trai thấy cô gái dễ thương, bèn bông lông rằng:
Nước Láng Linh chảy ra Vàm Cú
Thấy em chèo cặp vú muốn hun
Quả là lời tỏ tình trắng trợn, muốn chuyện … rất nhạy cảm mà dám cất thành lời, nhưng xét cho cùng đối tượng cần nghe hình như không nghe thấy, người dưới sông, người trên bờ, khoảng cách quá xa … Có lẽ, khi gần nhau chẳng ai dám nói kiểu … đó! Nhưng cũng chẳng sao, nếu bị phản ứng, anh ta sẽ dễ dàng ứng phó, theo kiểu “tán gái”:
Bới tóc cánh tiên, bỏ vòng lá liễu
Thấy miệng em cười trời biểu anh thương
Nhiều khi, tỏ tình không được thì làm liều kiểu Chí Phèo yêu Thị Nở (nhân vật của Nam Cao), nói chơi cho vui, ai nghe được thì cứ xem là câu nói giễu, để cười, song không phải vì thế mà không có ẩn tình:
Tui hun mình, dẫu mình có la làng
Thì tui la xóm hai đàng la chung
Tui hun mình dẫu có làm hung
Nhơn cùng tắc biến tui chun xuống sàn
Ở cảnh ngộ khác, có lẽ chàng trai đã “để ý” đến người mình thương nhiều lắm, nhưng anh ta không dám mở lời. Anh chàng mượn con cua để nói khơi khơi:
Con cua càng bò ngang đám bí
Nó với chị mày giờ tí qua qua
Chức năng bông đùa của câu ca này theo chúng tôi nằm ở mốc thời gian hẹn ước. Giờ tý là canh ba, mọi người đã yên giấc ngủ, anh ta lại “qua” để gặp chị mày thì chắc là sẽ … có chuyện!
Trong kết cấu đối đáp cũng có những câu lém lỉnh, cà rỡn:
- Ai mà bày đặt dị kỳ
Áo bà ba may hai túi đựng giống gì hở anh
- Ba má bày đặt cho anh
Áo bà ba may hai túi đựng dầu chanh o mèo
Một trường hợp hỏi – đáp khác:
Nước mắm ngon dầm con cá bẹ
Anh biểu em rình lén mẹ qua đây!
Nói như đùa chơi kiểu đó, người Tây Nam bộ gọi là nói giỡn. Chàng nói kiểu giỡn chơi thì nàng cũng đáp kiểu giỡn chơi.
Nước mắm ngon dầm con cá đối
Em biểu anh chờ để tối em qua
Chưa biết sự thể sẽ ra sao, chỉ có điều nói là để … chơi, vậy thôi!
Khi nói cà rỡn, yếu tố tục, những từ ngữ gợi đến những bộ phận trên cơ thể của con người được tận dụng triệt để. Phần trên chúng tôi đã dẫn câu ca mà chàng trai … muốn hun! Đến đây, thấy cần bổ sung mấy ví dụ nữa để bài viết thêm sinh động:
Thân anh lỡ dại hai lần
Nhỏ măn vú mẹ, lớn mằn vú em
Cách nói tếu táo của chủ thể phát ngôn khi anh ta nhận mình là dại nhưng thật ra thì là khôn đấy, một cách nói ngược đáng nghe!
Tiếu lâm hơn là lời của “ông” anh rể:
Giữa trưa đói bụng thèm cơm
Thấy đùi em vợ như tôm kho tàu
Đem “đùi” của cô em vợ nõn nà so sánh với “tôm kho tàu” giữa khi bụng đói … thì thật là chỉ có anh ta dám nói những điều mà nhiều người nghĩ, nhiều kẻ muốn, nhưng không ai dám … giỡn kiểu đó!
Sau hết, xin dẫn một câu ca có miêu tả trực tiếp yếu tố sinh thực khí của nữ giới:
Cô kia cấy lúa Nanh Chồn
Chổng mông cô để cái l… cô lên
3. Chức năng của cách nói trong ca dao
Những biểu hiện của cách nói trong ca dao mà chúng tôi vừa liệt kê đã góp phần quan trọng để các nhà thi pháp học khẳng định ca dao là câu thơ điệu nói, nó mang ngữ điệu người, giọng điệu người, thể hiện đa dạng các cung bậc, cảm xúc trong tâm hồn con người.
Chính từ những cách nói bằng ngữ điệu ấy đã đem đến cho ca dao hơi thở rất riêng, dù đặc trưng thể loại đã làm cho tính cá nhân bị xoá nhoà.
- Bên dưới có sông, bên trên có chợ
Hai đứa mình kết vợ chồng nghen
- Thấp đăng cá nhảy qua lờ
Anh đừng xí gạt em chờ uổng công
- Tưởng rằng anh tới anh chơi
Ai dè anh tới kết đôi vợ chồng
Những từ vốn dĩ quen thuộc trong lời nói hàng ngày như “nghen”, “xí gạt”, “ai dè”, … đã làm cho lời ca lung linh như chính họ nghĩ, họ làm, họ nói, …
Ai đó từng “chê” cụ Đồ Chiểu sao để cho Vân Tiên “ừ” trước mặt nàng Nguyệt Nga xinh đẹp trong truyện thơ Lục Vân Tiên (Vân Tiên ngó lại rằng: ừ), thì hãy nghe đây, cách nói, cách tỏ bày tình cảm trong dân gian miệt này:
Ngó lên chữ ứ, ngó xuống chữ ư,
Anh thương em hổng thẳng em ừ,
Anh đừng thương vội mẫu từ em hay
Còn đây là lời của một cô vợ trong cảnh gia đình chồng một vợ hai:
Vợ lớn đánh vợ nhỏ,
Chạy ra cửa ngõ ,
Ngóng cổ kêu trời!
Ớ anh ơi ?
Nhứt phu lưỡng phụ, ở đời đặng đâu?
Cuối cùng, chúng tôi mượn câu ca mùi mẫn bậc nhất chốn ruộng đồng dưới đây để thay lời tiểu kết:
Con cá làm nên con mắm
Vợ chồng già thương lắm mình ơi!
4. Kết luận
Người Tây Nam Bộ bộc trực, thẳng thắn, nhưng cũng rất tinh tế, khéo léo trong ứng xử. Họ sẵn sàng đùa cợt, cười rần để xua tan đi những nỗi nhọc nhằn trong quá trình chinh phục thiên nhiên hoang dại. Và lời nói là nơi thổ lộ rõ ràng nhất.
Lời nói là phương tiện không thể thiếu trong giao tiếp. Trong giao tiếp lại bộc lộ văn hoá ứng xử của người bình dân. Hơn thế, lời nói đã đi vào lời ca, tiếng hát, nó góp phần làm lung linh thêm những “hạt ngọc” tinh thần của người dân quê chơn chất.
Từ lời nói dân gian, chúng ta còn phải học tập nhiều lắm ở họ:
Chim khôn kêu tiếng rãnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe./.
Trần minh Thường
Nguồn: vanchuongviet

Tiếng Cười Trong Ca Dao Tây Nam Bộ

Tiếng Cười Trong Ca Dao Tây Nam Bộ

1. Khái niệm cười trong văn học
Tự điển Tiếng Việt định nghĩa cười (động từ): Nhích môi, hé miệng, nhe răng phát ra tiếng hay không để tỏ sự vui mừng hay một ý tứ gì [246; 2].Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra phạm trù cái hài. Phạm trù mĩ học phản ánh một hiện tượng phổ biến của thực tế đời sống vốn có khả năng tạo ra tiếng cười ở những cung bậc và sắc thái khác nhau.
tiengcuoimientayCái hài gắn với cái buồn cười, nhưng không phải cái buồn cười nào cũng trở thành cái hài. Cái hài bao hàm ý nghĩa xã hội gắn liền với sự khẳng định lý tưởng thẩm mỹ cao cả. [42; 4]. Ca dao Tây Nam Bộ xuất hiện nhiều tiếng cười độc đáo. Nó chính là cái hài như quan điểm của lý luận văn học.
2. Ca dao Tây Nam Bộ với việc miêu tả các tiếng cười
Cũng như các vùng miền khác, theo bước chân người đi mở cõi thì lời ca, tiếng hát, điệu hò, điệu lý, … tất cả như hơi thở không thể thiếu được trong sinh hoạt của người bình dân. Và lẽ tất nhiên trong đó không thể thiếu tiếng cười
Chuồn đậu ngọn cau lơ
Anh cười bả lả, em ngờ duyên anh
Hãy khoan bàn đến nội dung và chức năng của tiếng cười, điều này chúng tôi sẽ bàn ở phần sau. Ở đây chúng tôi điểm qua các cách kết hợp của từ cười trong ca dao.
Như đã nói, cười là một động từ:
Nực cười con tạo trớ trênh
Chữ duyên chao chát, chữ tình lãng xao
Còn đây là sự kết hợp của động từ cười với một tính từ để khu biệt nghĩa:
Chiều chiều ra đứng vườn cà
Thấy em cười lạt anh biết đà hết duyên
+ Cóc nghiến răng còn động lòng trời
Cũng vì em có điệu cười mỉm chi
Cái cười lạt của câu trên đã phần nào giúp cho người trong cuộc và cả người nghe được câu ca ấy hiểu rõ được kết cục của một chuyện tình!
Cô gái có nụ cười mỉm chi ấy như đã tô đẹp vẻ sắc nước hương trời làm rúng động cả thiên nhiên, loài vật!
Cười được đặt sau danh từ:
Chẳng tham nhà ngói lung linh
Tham gì một nỗi anh xinh miệng cười
Bốn từ cuối là bốn từ loại khác nhau, tác giả dân gian khéo sắp đặt để có kết hợp hài hoà giữa đại từ nhân xưng (anh), tính từ (xinh) danh từ (miệng) và động (cười).
Cười kết hợp với các đại từ phiếm định:
Ngửa tay lấy tấm vàng mười
Quần bô áo vải ai cười mặc ai
Ai trong trường hợp này đều là những đối tượng không xác định!
Cười cũng có thể kết hợp với các hư từ:
Vô duyên chưa nói đã cười
Chưa đi đã chạy là người vô duyên
Xét về góc độ từ pháp chúng ta đã phần nào thấy được sự đa dạng của cái “cười”!
3. Giọng trào phúng trong ca dao Tây Nam Bộ
3.1 Những giới thuyết
Trào phúng là thuật ngữ văn học. Đây là một loại đặc biệt của sáng tác văn học và đồng thời cũng là một nguyên tắc phản ánh nghệ thuật trong đó các yếu tố của tiếng cười mỉa mai, châm biếm, phóng đại, khoa trương, hài hước, … được sử dụng để chế nhạo, chỉ trích, tố cáo, phản kháng … những cái tiêu cực, xấu xa, lỗi thời, độc ác trong xã hội [363; 4]
Từ điển thuật ngữ văn học còn xác định một nét nghĩa nữa trào phúng theo nghĩa từ nguyên là dùng lời lẽ bóng bẩy, kín đáo để cười nhạo, mỉa mai kẻ khác [363; 4]. Theo nghĩa hẹp hơn, chúng tôi nhận thấy trong văn học, đặc biệt là trong thơ ca dân gian cũng xuất hiện giọng điệu trào phúng.
Giọng điệu nghệ thuật với tư cách là một phạm trù thẩm mỹ, một yếu tố có vai trò hết sức quan trọng trong việc cấu thành phong cách nhà văn là vấn đề đã được nhận ra từ lâu kể cả trong văn học Phương Tây và văn học phương Đông. Nhiều bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra và chứng minh vai trò quan trọng của giọng điệu (tone) hay “văn khí”, “hơi văn”, “giọng văn” (cách gọi quen thuộc ở Trung Quốc và Việt Nam) không chỉ trong sáng tác mà cả trong nghiên cứu, tiếp cận tác phẩm văn học và phong cách cá nhân nhà văn.
Nhắc đến phong cách có nghĩa là chúng ta thừa nhận mỗi nhà văn có một giọng điệu riêng, đồng thời cũng từ đó ta khẳng định một thể loại được nhiều nhà văn chọn thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm thì cũng sẽ có giọng điệu chung – giọng điệu thể loại.
Song, vấn đề đặt ra ở đây là thơ ca dân gian nói riêng và văn học dân học dân gian nói chung có giọng điệu không? Theo chúng tôi, ca dao, như mọi thể thơ khác, nó cũng có giọng điệu. Không có giọng điệu thì hoá ra mọi lời lời thơ – lời nói đều như nhau sao? Tất nhiên, người ta có thể hiểu khái niệm giọng điệu theo những nghĩa rộng hẹp khác nhau. Lịch sử thơ ca chứng minh có sự tồn tại nhiều loại hình giọng điệu: giọng điệu thơ dân gian, giọng điệu thơ cổ điển, giọng điệu thơ hiện đại… Như vậy, vấn đề đặt ra không phải là hỏi ca dao có giọng điệu hay không mà hỏi giọng điệu trong ca dao có đặc thù gì?
Ít nhất, có thể nghĩ giọng điệu trong ca dao không mang đậm dấu ấn  cá nhân – cá thể. Điều này có thể giải thích được căn cứ vào tính tập thể, tính truyền miệng của ca dao. Giọng điệu ở đây chủ yếu gắn liền với tính loại hình của những nội dung cảm xúc hay sự việc được bày tỏ, miêu tả. Cảm xúc, sự việc khác nhau thì giọng điệu khác nhau. Có lẽ, sự khác biệt của giọng điệu ở từng bài ca dao chỉ dừng ở đó.
Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi khẳng định trong lĩnh vực văn học, trào phúng gắn liền với phạm trù mỹ học và cái hài với các cung bậc hài hước umua, châm biếm [363; 4]. Căn cứ vào nhận định ấy, và qua khảo sát từ thực tế chúng tôi nhận giọng điệu trào phúng của ca dao Tây Nam Bộ trải qua các cung bậc:
3.2. Giọng điệu trào phúng qua ca dao Tây Nam Bộ
3.2.1 Giọng bông đùa, hài hước
Đây là cung bậc “nhẹ” của tiếng cười. Người bình dân mệt sông nước tự trào, bông đùa, … dù là những sáng tác dân gian, nhưng yếu tố tự tình vẫn “đậm” dấu ấn. Trước hết ta gặp giọng điệu này ở những câu ca dao đùa vui, trào lộng với nội dung diễn tả những sự việc “lạ” trong cuộc sống hay sự “hớ hênh” của con người.
Một cô nàng thật thà cả tin đã giật mình “hú vía” vì kịp thời nhận ra “chân tướng” đối tượng:
May không chút nữa em lầm
Khoai lang khô xắt lát em tưởng sâm cao ly bên Tàu
Đây là hình ảnh của “nạn nhân”:
Cô kia cười cợt ghẹo trai
Cái miệng méo xẹo như quai chèo đò
Cười cợt một con người không đứng đắn, “ham vui” bằng một giọng hóm hỉnh:
Giữa trưa đói bụng thèm cơm
Thấy đùi em vợ như tôm kho tàu, …
Nhưng nổi bật hơn hết giọng điệu bông đùa hài hước gặp rất nhiều trong những câu dao với đề tài tình yêu đôi lứa:
Từ một sự chọc ghẹo “quá đà”:
Vú em nhu nhú chúm cau
Cho anh bóp cái có đau anh đền
Hay
Nước láng linh chảy ra Vàm Cú
Thấy em chèo cặp vú muốn hun
Một lời tỏ tình cũng đầy tiếng cười hơn là chủ đích thực của nó:
Thương em nên mới đi đêm
Té xuống bờ ruộng đất mềm hổng đau
May đất mềm nên mới hổng đau
Phải mà đất cứng ắt xa nhau phen này
Đến lúc anh chàng tương tư, giọng điệu cũng bông lơn hết chỗ nói:
Vắng cơm ba bữa còn no
Vắng em một bữa giở giò không lên
Khẳng định sự chung thuỷ dù muôn ngàn trở lực:
Dao phay kề cổ, máu đổ không màng
Chết thì chịu chết, buông nàng anh không buông
Ngay những mộng mơ tơ tưởng cũng không kém phần hài hước:
Phòng loan trải chiếu rộng thình
Anh lăn qua đụng cái gối, tưởng bạn mình, em ơi!
Tôi xa mình ông trời nắng tôi nói mưa
Canh ba tôi nói sáng, giữa trưa tôi nói chiều
Họ xa nhau vì bởi ông tơ, bà nguyệt thì những “đối tượng” ấy thành nạn nhân để họ trút giận:
Quất ông tơ cái trót
Ổng nhảy tót lên ngọn cây bần
Biểu ông xe mối chỉ năm bảy lần, ổng không xe
Trong khi tan vỡ duyên tình giọng điệu kia cũng đem đến những nét khác biệt:
Tưởng giếng sâu qua nối sợi dây cụt
Ai dè giếng cạn nó hụt cái sợi dây
Qua tới đây mà không cưới được cô Hai mầy
Qua chèo ghe ra biển… đợi nước đầy qua chèo vô
Nó không như giọng tâm tình thường thấy ở những câu ca biểu hiện cung bậc này trong tình yêu:
Tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài
Ai dè nước giếng cạn anh tiếc hoài sợi dây
Trong cuộc sống vợ chồng, khi có sự bất hoà, giọng điệu hài hước cũng có mặt kịp thời:
Mù u ba lá mù u
Vợ chồng cãi lộn con cu giảng hoà
3.2.2. Giọng châm biếm, đả kích
Đả kích, châm biếm xét về mặt chức năng của ca dao hài hước nó sẽ ở một “cấp độ” cao hơn, nặng hơn. Nếu như giọng bông đùa, hài hước phần lớn thể hiện chức năng tự trào, để giải trí, thì châm biếm, đả kích hướng tới việc phên phán đối tượng với những thói hư tật xấu của con người trong cuộc sống.
Cũng là lời tỏ tình, nhưng chúng ta hãy nghe đây lời đối đáp:
+ Anh có thương em thì cho em một đồng,
Để em mua gan công, mật cóc thuốc chồng em theo anh.
+ Nghe hò tao phát nổi xung
Dớt cho một phảng chết chung cho rồi!
Một lời tỏ tình với một cô gái đã có chồng đã là trái đạo lý. Song, khi nghe cô gái kia đáp lại chuyện “thuốc chồng”, người ngỏ lời hay đằng sau họ là nhân dân đã không thể dung thứ, đó là lời cảnh báo: bắt cho gian phu dâm phụ “chết chung!” âu cũng là điều tất yếu.
Trong tình duyên, tiếng cười “lãnh nhách” làm cho hai kẻ hai đường:
Tưởng đâu bến đã gặp thuyền
Nào hay em cười lãng nhách anh liền lui ghe
Chàng trai ý thức rằng không phải lúc nào tiếng cười cũng vui cửa vui nhà, có khi đó là điều tai hoạ:
Thà rằng chịu cảnh gông xiềng
Còn hơn có vợ cười vô duyên trong nhà
Đối với những con người không đứng đắn:
Con quạ nó núp vườn chồi
Thấy em đứng cười lỏn lẻn với ai
Chắc chắn đây là “đối tượng” không thể tin được, bởi sự gian dối, lọc lừa:
Quét nhà long mốt long hai
Cha mẹ đi vắng dẫn trai vô nhà
Đối với những con người “vượt rào” như vậy, dân gian không tiếc lời:
Chuối non vú ép chát ngầm
Trai tơ đòi vợ khóc thầm thâu đêm
Khóc đêm mẹ lại mắng thêm
Vợ đâu tao cưới nửa đêm cho mày?
Có khi cả “người lớn” cũng là “nạn nhân” cửa sự châm biếm:
Mẹ ơi con muốn lấy chồng
Con ơi mẹ cũng một lòng như con
Họ tự khuyên mình:
Cười người ngó lại sau vai
Xem mình trong sạch hơn ai mà cười
Và đây là những chân tướng bị tác giả dân gian lên án, phên phán, đả kích:
Một văn nhân nào đấy tự khoe là học đạo lý thánh hiền, nhưng cũng không thoát được dục vọng thường tình của con người:
Văn chương chữ nghĩa bề bề
Thần l.. ám ảnh mà mê mẫn đời
Một tay anh hùng làm ra dáng vẻ đạo mạo, trở thành tiếng cười đầy ẩn ý mỉa mai:
Dậm chân xuống đất cái đùng
Vỗ l … cái phạch chào anh hùng đến đây!
Một thầy bói, chuyên sống bằng nghề ăn may nói mò:
Nực cười thầy bói trèo cau
Buồng thì không bẻ bẻ tàu quơ quơ
Hãy nghe giọng cười mà tác giả dân gian giễu cợt thầy:
Nhà bà có con chó đen
Người lạ nó sủa người quen nó mừng
Nhà bà có cái cối xay
Bốn chân dưới đất, ngõng quay lên trời
Và đây là những bài học, những lời cảnh báo ẩn chứa giọng điệu mà chúng tôi đề cập:
+ Rung rinh nước chảy qua đèo
Bà già tập tễnh mua heo cưới chồng
+ Mèo hoang thì chó cũng hoang
Một chàng ăn trộm gặp nàng nhổ môn
+ Có chồng thì mặc có chồng
Tôi đi ngủ dạo kiếm ít đồng mua rau!
+ Cầm chài mà vải bụi tre
Con gái mười bảy đi ve ông già!
+ Củ lang nấu lộn củ mì
Cháu lấy chồng dì kêu dượng bằng anh
+ Con gái chơi với con trai
Coi chừng cặp vú như hai sọ dừa
4. Cách thức thể hiện của những giọng điệu trào phúng:
4.1. Dùng cách nói phóng đại
Phong cách ngôn ngữ học gọi đây là biện pháp tu từ khoa trương, hay thậm xưng, tức là phương thức cường điệu một mức độ, một tính chất, một đặc điểm nào đó của sự vật, sự việc, con người:
+ Phải chi cắt ruột đừng đau
Để em cắt ruột em trao anh mang về!
+ Con gái mười bảy mười ba
Đêm nằm với mẹ, khóc la đòi chồng
Mẹ giận mẹ phát ngang hông:
”Đồ con chết chủ đòi chồng thâu đêm”!
Chúng ta vốn đã rất quen lối nói này ở ca dao Việt Nam:
Lỗ mũi mười tám cánh lông
Chồng thương chồng bảo tơ hồng trời cho
4.2. Nghệ thuật chơi chữ.
Hoàng Phê giải thích: “Chơi chữ là lợi dụng hiện tượng đồng âm, đa nghĩa, v.v, … trong ngôn ngữ nhằm gây một tác dụng nhất định (như bóng gió, châm biếm, hài hước, …) trong lời nói. (Từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Giáo Dục. H. 1994).
Từ điển thuật ngữ văn học gọi chơi chữ là “lộng ngữ” và giải thích là một biện pháp tu từ có đặc điểm: người sáng tác sử dụng những chỗ giống nhau về ngữ âm, ngữ nghĩa, văn tự, văn cảnh để tạo ra sự bất ngờ thú vị trong cách hiểu, trong dòng liên tưởng của người, người nghe”. Các hình thức của lộng ngữ rất phong phú, trong đó có: nói lái, dùng từ đồng âm hoặc gần âm, dùng từ gần nghĩa, tách một từ thành các từ khác nhau. (có thể xem đây là hình thức của nghệ thuật chơi chữ – người viết chú thêm). Các tác giả trong quyển từ điển này cho rằng: nhìn chung các lộng ngữ đều mang tính hài hước, thường được sử dụng trong văn thơ trào phúng (có thể xem đây là tác dụng của nghệ thuật chơi chữ – người viết chú thêm). [183; 4]
Như vậy, giọng điệu bông đùa, trào lộng không thể thiếu được biện pháp nghệ thuật này. Chơi chữ có rất nhiều dạng, ở đây chúng tôi chỉ điểm qua những hình thức cơ bản của chơi chữ mà thôi!
Dùng từ đồng âm:
+Cu tôi vừa mới đâm lông
Cho mượn cái lồng nhốt đỡ vài đêm?
+Cu tui ăn đậu ăn mè
Ăn chi của chị mà chị đè cu tui
Cu vừa chỉ con chim gáy, vừa dùng để ám chịu điều mà nhận vật trữ tình kia muốn nói. Lồng vừa là dụng cụ dùng để nhốt chim và lẽ tất nhiên câu ca nọ không dừng lại ở đó, nghĩa mà nó muốn hướng đến là nghĩa ẩn ở chiều sâu, buộc “đối phương” phải hiểu …
Dùng từ đa nghĩa:
Cồng cộc bắt cá bầu eo
Chi chê tôi bé, tôi trèo chị coi
Cách nói lấp lửng “chê tôi bé” hay “cái gì” của tôi bé! Tác giả câu ca còn bạo dạn “đòi” trèo (gợi hành động ân ái), … tất cả đã tạo nên sự hài hước mà không kém phần thú vị!
Lối lấp lửng này, ta còn gặp nhiều câu khác:
+ Ví ví von von
Anh cho một cái, cỏng con về nhà
+ Cô tú kẽo kẹt cậu cai
Vợ chồng thuyền chài kẽo kẹt dưới sông
Cách chơi chữ ở đây là dùng từ tượng thanh chỉ cả hành động thực lẫn động tác của nam nữ lúc yêu đương!
Lối nói lái:
Tặng anh cái áo tôn là
Ban ngày mặc mát tối ra câu đề
Hai chữ cuối của mỗi dòng đều sử dụng cách nói lái.
4.3. Dùng yếu tố tục
Chuyện nói tục thiên về cái tục là chuyện của mọi dân tộc, trong đó có người Việt Nam. Nói tục nhằm vào một sự hạ giá. Song không nên quá cực đoan về sự hạ giá này. Nói tục để gây cười nhằm thoả mãn sự nghịch ngợm. Nói lái trong nghệ thuật chơi chữ cũng là một phần của nói tục. Thực tế của việc nói tục là dùng nhiều từ ngữ chỉ hoặc gợi sinh thực khí (của đàn bà nhiều hơn, có lẽ do văn hoá và tính cách đàn ông, nam giới nói tục nhiều hơn chăng?) hay cả hành động ân ái vợ chồng. Tất cả những yếu tố tục ấy tạo giọng điệu bông đùa, gây tiếng cười thoải mái:
+ L… này l… chẳng sợ ai
Sợ thằng say rượu đ… dai đau l…
+ Gió nam non thổi lòn hang chuột
Đ… em rồi, đ… nữa được không em?
+Cô Ba, cô Bốn lấy chồng
Cô Năm ở lại giật mồng tăng tăng
+ Xót lòng mẹ góa con côi
Kiếm ăn lần hồi l… lớn bằng mo
Dĩa bàng thang con tôm càng dựng đứng
Bởi gia cảnh anh nghèo nên c…  nứng nửa con
5. Vài kết luận
Cái cười, tiếng cười là một yếu tố, một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống con người. Ca dao dân ca là tiếng lòng của người lao động, đương nhiên họ đem tiếng cười vào trong lời thơ điệu hò câu lý như một lẽ tất nhiên không phải bàn cãi.
Qua cái cười ấy, chúng ta hôm nay thấy được tâm hồn phúng khoáng, bông đùa, hay trào lộng vừa để tạo không khí thoải mái, vui vẻ, nhưng không dừng lại ở đó, nó còn ẩn chứa nhiều bài học răn đời, nhiều đối tượng bị đả kích giễu cợt, … cốt làm cho cuộc sống tốt hơn, đẹp hơn.
Trí tuệ thể hiện những vần ca điệu hát ấy như những hạt ngọc sáng ngời, nó là sản phẩm của những tâm hồn “gần bùn mà chẳng tanh hôi mùi bùn”. Tìm trong văn học dân gian những kho tàng tri thức quý giá đó là một việc cần thiết cho những yêu và quý cội nguồn văn hoá dân tộc./.
Trần Minh Thường
Ngườn vanchuongviet.org

Xuồng ghe nét đẹp văn hóa độc đáo miền tây nam bộ


Chỉ có thể nói miền tây nam bộ nơi hội tụ những kênh rạch, sông ngòi gắn bó với cảnh sông nước ấy chính là những chiếc ghe, chiếc xuống đã trở thành những hình ảnh không thể thiếu trong đời sống của người dân nơi đây. Những chiếc xuồng, ghe này là phương tiện phục vụ đi lại của người dân nơi đây cũng như những khách du lịch.



Ghe xuống miền tây nam bộ phát triển theo nhiều kiểu, đa dạng, đủ độ nông sâu cho đến những loại ghe thuyền cỡ lớn, vận tải nặng chở được nhiều người, ngày nay  việc di chuyển trên sông nước còn có cả ghe máy, xuồng máy với vận tốc nhanh chạy song song với những chiếc xuồng, chiếc ghe cổ điển.


Xuồng được phân thành ba loại đó là xuồng ba lá, xuồng năm lá và xuồng tam bản, loại xuồng tam bản là loại xuồng lớn hơn chút đỉnh  trước đây nó chỉ có một chèo sau này để đi lại nhanh thì người dân nơi đây chế thêm một chèo nữa.


Ghe có nhiều loại  có mail tam bản, ghe bầu, ghe chài, .... ghe tam bản mui ngắn, có đến chín mảnh ghép hoặc nhiều hơn. Ghe có đôi be gió giống như xuống máu, để làm chỗ nghỉ ngơi và để hàng hóa.
Nghề đi xuồng , ghe từ lâu trở nên quen thuộc với cư dân miền tây nam bộ, tồn tại song song với nghề làm ruộng, làm vườn. Ở những địa điểm du lịch miền tây người ta cũng tổ chức cho những khách du lịch đi bằng xuồng ghe để trải nghiệm được hết những tập quán sinh hoạt của người dân nơi nước quanh năm này.


Hơn nữa xuồng ghe cũng là phương tiện để truyền tải văn hóa dân gian đi khắp nơi, chính hình ảnh những chiếc ghe, chiếc xuồng trên sông gắn với người dân miền tây nam bộ như một nét đẹp văn hóa, và cũng từ nét đẹp văn hóa này xuất hiện những câu hát hò chèo ghe, hò sông Hậu, Đồng Tháp... đã tạo nên bản sắc văn hóa riêng cho vùng sông nước miền tây này.

Thứ Ba, 28 tháng 10, 2014

5 KIẾN TRÚC MỚI TUYỆT ĐẸP CỦA SÀI GÒN

5 KIẾN TRÚC MỚI TUYỆT ĐẸP CỦA SÀI GÒN

Hải đăng của thành phố, lâu đài mô phỏng một trong những kỳ quan thế giới TajmaSago, tòa nhà Paragon sang trọng và tinh tế với kiến trúc gothic Pháp… là những kiến trúc mới của Sài Gòn khiến mọi người phải ấn tượng.

"Hải đăng" Bitexco
Bitexco Financial Tower (Tháp Tài chính Bitexco) là biểu tượng mới của thành phố với một tòa nhà chọc trời được xây dựng tại trung tâm Quận 1.
Tháp Tài chính Bitexco long lanh trong đêm.
Được xây trên diện tích gần 6.000m² với tổng vốn đầu tư ước tính khoảng 300 triệu đôla Mỹ, tòa nhà có chiều cao từ mặt đất đến đỉnh là 262m; cao thứ nhất ở Việt Nam tính đến nay và cao thứ 110 thế giới tại thời điểm khánh thành.
Hiện tòa nhà có một đài quan sát dành cho công chúng trên tầng 49 (giá tiền cho một lần tham quan là 200.000 đồng) cho phép khách tham quan ngắm nhìn 360 độ toàn cảnh thành phố và sông Sài Gòn.
Lâu đài châu Âu: Parkson Paragon
Tọa lạc ngay trung tâm đô thị mới Nam Sài Gòn, trung tâm mua sắm Parkson Paragon tái hiện trọn vẹn vẻ đẹp của một lâu đài châu Âu thế kỷ XIX với tất cả những đường nét sang trọng, xa hoa, cầu kỳ song vẫn thanh cao và và tinh tế. Đặc biệt, tòa nhà còn mê hoặc mọi người với sự xanh mát, không khí thanh bình đến từ màu xanh của kiến trúc, của cây cối dọc lối đi.
Paragon cũng là rạp chiếu phim: Điểm đặc biệt của Megastar Parkson Paragon là phòng chiếu M – Cinema, đưa hoạt động thưởng thức điện ảnh lên đẳng cấp mới. Khán giả sẽ được tiếp đón bởi dịch vụ riêng trong phòng khách VIP. Hệ thống ghế da thoải mái, lịch lãm có thể tự điều chỉnh cùng bộ gối chăn tạo sự thoải mái tối đa cho người dùng. Và không nghi ngờ gì rằng chất lượng âm thanh và hình ảnh của phòng chiếu được đảm bảo ở mức chuẩn nhất.
Địa chỉ: Nguyễn Lương Bằng, Phú Thuận, Q.7, TP.HCM
Tuyệt đẹp Crescent Mall
Crescent Mall nằm kề bên cạnh hồ Bán Nguyệt và cầu Ánh Sao, trung tâm thương mại Crescent Mall "hút" người đi đường với thiết kế uốn lượn tuyệt đẹp của hệ thống thép và kính chịu lực, hệ thống vườn rộng rãi, tuyệt mỹ. Bên ngoài đã ấn tượng, bên trong tòa nhà càng hiện đại với hệ thống thang cuốn, màu sắc của trần, đèn cùng hơn 210 cửa hiệu, một loạt những nhà hàng, cửa hàng cà phê... với đầy đủ không gian ngoài trời hay trong phòng lạnh đẳng cấp. Trung tâm thương mại này có 6 tầng và 3 hầm.
Kề cận Crescent Mall còn có khu chợ đêm nằm ven Hồ Bán Nguyệt kinh doanh nhiều mặt hàng khác, rất đông vui vào buổi chiều tối. Ngoài điểm tham quan, mua sắm của mọi người, Crescent Mall cũng là nơi đươc các tay chơi ảnh đến để “săn” ảnh đẹp.
Địa chỉ: Nguyễn Văn Linh, Q.7, TP.HCM (ngay chân cầu Thầy Tiêu).
Nhà hàng đẹp nhất thế giới Cham Charm
Nằm chếch phía tây Hồ Bán Nguyệt và cầu Ánh Sao, lâu đài Cham Charm mê hoặc bất kỳ ai một lần đặt chân đến khu vực này bởi vẻ đẹp của một lâu đài xa hoa và lộng lẫy trong đêm.
Cham Charm được xem như một trong những nhà hàng đẹp nhất thuộc chuỗi các nhà hàng triệu đô của Khaisilk, có kiến trúc mô phỏng phong cách kiến trúc Angkor với màu trắng nổi bật giữa hai hàng cây xanh.
Không gian bên trong lâu đài không khác cung điện của một vị vua Chăm Pa với mảng tường gạch xếp so le phủ lớp ánh sáng đỏ kỳ bí, hàng cột đá ở Mỹ Sơn, tượng thần bằng đất nung, tượng Linga, các di vật cổ, tượng điêu khắc, những bộ bàn ghế, thảm vương giả, chén đĩa kiểu cách…
Cham Charm có diện tích 5.000m² và có thể chứa đến 600 khách. Nhà hàng còn được biết đến như một gallery ẩm thực đầu tiên của châu Á, nơi có tới hơn 1.300 loại rượu từ khắp thế giới.
TajmaSago, thánh đường Tajma ở Sài Gòn
Lâu đài TajmaSago, một trong những khu nghỉ dưỡng cao cấp dành cho doanh nhân ở Sài Gòn mô phỏng kiến trúc của ngôi thánh đường Tajma, một trong những kỳ quan của thế giới nổi bật với tông màu trắng đen sang trọng.
Lâu đài trắng TajmaSago là một trong những dich cơ siêu sang của doanh nhân Khải Silk có tổng vốn đầu tư tới 15 triệu USD. TajmaSago gồm 19 phòng được thiết kế, trang bị với những tiện nghi cao cấp nhất.
Lâu đài có hai nhà hàng theo phong cách khác nhau, trong đó nhà hàng Le Taj có những món ăn được phủ vàng lá 24K.
TTđTD - Theo Du lịch, GO