Ẩm thực là tiếng dùng khái quát nói
về việc ăn và uống. Văn hóa ẩm thực bao gồm cả cách chế biến, bày biện
và thưởng thức từng món ăn, thức uống, từ đơn giản, đạm bạc đến cầu kỳ
mỹ vị. Chung nhất là vậy, song khi nói đến văn hóa ẩm thực ở một
vùng/miền nào đó thì nhất thiết phải nói lên “đặc điểm tình hình” mới có
thể nêu được bản sắc văn hóa đặc trưng cụ thể của vùng/miền ấy.
Ở Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng
đâu đâu cũng đất rộng sông dài, nơi nào cũng kinh rạch chằng chịt lại
lắm lung, hồ, búng, láng…, không nơi nào không nhung nhúc cá, tôm, rắn,
cua, rùa, ếch… đã vậy còn có cả rừng già, rừng thưa, đầy dẫy chim muông,
thú to, thú nhỏ. Phía này thì “năm non bảy núi” trập trùng, không biết
cơ man nào là “sơn hào”, còn phía nọ thì biển Đông, biển Tây, toàn là
“hải vị”!
Nhưng để có được một kho báu “trên cơm
dưới cá”, người Nam Bộ nói chung và người miền Tây nói riêng không thể
không năng động sáng tạo trong gieo trồng, đánh bắt và khai thác chế
biến. Cho dù “làm chơi ăn thiệt” người miền Tây bao đời nay đã đầu tư
không biết bao nhiêu là tim, là óc mới có được thành quả khả quan đầy
trí tuệ như ngày hôm nay. Nhờ được kế thừa, phát huy và liên tiếp khám
phá, sáng tạo mà văn hóa ẩm thực ở miền Tây ngày càng phong phú, đa
dạng. Từ đó, miếng ăn và “thói ăn” của người miền Tây có những cái rất
riêng. Nhưng cái riêng ấy không ngoài cái chung của dân tộc Việt Nam
nghìn năm văn hiến:
- Ăn để sống chứ không phải sống để ăn.
– Ăn theo thuở ở theo thời.
– Ăn coi nồi ngồi coi hướng.
– Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm…
- Ăn để sống chứ không phải sống để ăn.
– Ăn theo thuở ở theo thời.
– Ăn coi nồi ngồi coi hướng.
– Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm…
Do đặc điểm địa hình và sinh hoạt kinh
tế, văn hóa Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng đã định hình nền văn
minh sông nước, ở đó nguồn lương thực – thực phẩm chính là lúa, cá và
rau quả kể cả các loại rau đồng, rau rừng. Từ sự phong phú, dư dật ấy mà
trải suốt quá trình khai hoang dựng nghiệp, món ăn, thức uống hàng ngày
của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng cho dù trong hoàn cảnh
nào, thiếu thốn đạm bạc, hay đầy đủ ngỏa nguê, họ không thể không khám
phá và sáng tạo nhiều phương thức nuôi trồng, đánh bắt để chế biến vô số
miếng ngon một cách có bài bản từ những đặc sản của địa phương.
Với phong cách thưởng thức “mùa nào thức
nấy” và quan niệm “ăn để mà sống” hầu có đủ dưỡng chất tái tạo sức lao
động, họ đã tỏ ra rất sành điệu trong việc phối hợp các yêu cầu cao nhất
của miếng ăn: thơm, ngon, bổ, khỏe. Câu nói “ăn được ngủ được là tiên”
rất được người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng quan tâm, xem
trọng, cho nên ngồi vào bàn ăn, khi chủ nhà giới thiệu món nào, dù là cá
thịt hay rau quả, kể cả rượu, họ thường nhắc nói: ăn món này bổ xương,
hoặc trị suy dinh dưỡng, bổ gan, bổ phổi…; rượu thuốc này giải quyết
được bệnh “tê bại” nhức mỏi; tráng dương, bổ thận v.v… Và không quên
“động viên” gắp đũa nằm, hoặc dùng muỗng múc (mới được nhiều), cứ tự
nhiên, hãy ăn thiệt tình “đừng mắc cỡ”, thậm chí ép ăn! Dùng bữa, thấy
khách ăn nhiều, ngon miệng chủ nhà không thể không cảm thấy sung sướng,
hài lòng.
Khẩu vị của người Nam Bộ nói chung và
miền Tây nói riêng cũng rất khác biệt: gì ra nấy! Mặn thì phải mặn quéo
lưỡi (như nước mắm phải nguyên chất và nhiều, chấm mới “dính”; kho quẹt
phải kho cho có cát tức có đóng váng muối); ăn cay thì phải gừng già,
cũng không thể thiếu ớt, mà ớt thì chọn loại ớt cay xé, hít hà (cắn trái
ớt, nhai mà môi không giựt giựt, lỗ tai không nghe kêu “cái rắc”, hoặc
chưa chảy nước mắt thì dường như chưa… đã!), ngọt thì ngọt như chè….
Nói đến cay mà không đề cập và nghiên
cứu khẩu vị của người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói riêng khi ăn tiêu
hột hoặc tiêu xay là cả một sự thiếu sót, bởi tiêu đâu chỉ là cay mà
còn ngọt! Vì sao “Ví dầu cá lóc nấu canh/Bỏ tiêu cho ngọt bỏ hành cho thơm”?
Phải hết sức tinh tế mới hiểu được trọn vẹn bản chất của tiêu. Thật
vậy, nếu ta thử nghiệm: nêm hai tô canh (hoặc cá kho) vẫn với các thứ
gia vị giống nhau nhưng nếu một trong hai tô canh không “bỏ tiêu” thì
nhất định tô ấy sẽ thiếu chất ngọt ngay – cho dù đã có đường, bột ngọt,
nhưng vẫn thấy không ngọt đặc biệt như tô có bỏ tiêu! Còn chua thì chua
cho nhăn mặt mới “đã thèm”; ngọt (chè) thì phải ngọt ngây, ngọt gắt; béo
thì béo ngậy; đắng thì phải đắng như mật (thậm chí ăn cả mật cá, cho là
“ngọt”!); còn nóng thì phải “nóng hổi vừa thổi vừa ăn”…
Vì sao khẩu vị người Nam Bộ nói chung và
miền Tây nói riêng lại “quyết liệt” như thế? Vấn đề đặt ra chẳng ai
giải thích được tại sao ngoại trừ người miền Tây lớp trước hoặc những
nhà nghiên cứu về văn hóa ẩm thực vùng đất này. Đó chẳng qua là dấu ấn
sắc nét thời khai phá. Thuở ấy, con người ở đây một mặt phải ra sức
khống chế thiên nhiên, thường xuyên đương đầu với nhiều loại thú dữ –
nói chung là phải đối phó với vô vàn gian nan khổ khó, một mặt phải “tay
làm hàm nhai”. Có được “ba hột” no lòng không ai không biết rằng “dẻo
thơm một hột đắng cay muôn phần”, cho nên người Nam Bộ nói chung và miền
Tây nói riêng không dám hoang phí làm rơi vãi hột cơm, hột gạo, mà đều
xem đó như “hột ngọc”. Có cơm ăn thôi là đã mãn nguyện, dám đâu nghĩ tới
chuyện vẽ viên cầu kỳ, thịnh soạn! Do thế mà chúng ta không lấy gì làm
lạ khi được biết, xưa người ở vùng này có “tài” ăn mặn, rất mặn, đến nỗi
“có người trong một bữa ăn, ăn hết hai ống mắm, độ hơn 20 cân, để làm
trò vui trong khi đố cuộc nhau”! Còn uống thì, vẫn theo sách Gia Định
thành thông chí, ông Trịnh Hoài Đức đã ghi nhận trường hợp ông Nguyễn
Văn Thạch nào đó đã từng uống trà Huế (đố cuộc) bằng cách “dùng một cái
vò rồng lớn miệng, rót ra bát lớn, uống luôn một hơi, mình ông mặc áo
đôi, mồ hôi đổ như nước tắm, giây lát uống hết nước ấy, lấy được tiền
cuộc”. Rõ ràng, uống được thật nhiều nước trà nóng sôi ngay khi mới rót
ra chén mà không phỏng miệng là cả một sự tài.
Những trường hợp vừa nêu tuy cá biệt
nhưng cũng đã nói lên được đặc trưng khẩu vị con người của một vùng đất.
Nhưng đó là khẩu vị của ngày trước. Nay tuy đã qua rồi giai đoạn cực kỳ
gian nan khổ khó, khẩu vị của họ cũng theo xu thế ăn sang mặc đẹp mà
thay đổi: lạt hơn, nhưng những món ăn ghi đậm dấu ấn thời khẩn hoang vẫn
hãy còn đó mà đại biểu là cá lóc nướng trui, rắn nướng lèo, mắm kho,
mắm sống…
Người Nam Bộ nói chung và miền Tây nói
riêng chẳng những không mặc cảm mà còn tự hào, phát huy để nhắc nhớ cội
nguồn, tri ân người mở cõi. Nếu những món ăn độc đáo ấy vẫn tồn tại, vẫn
hiện diện trong bữa cơm gia đình và cả trong nhà hàng sang trọng thì
khẩu vị và cung cách thưởng thức cố hữu của người Nam Bộ nói chung và
miền Tây nói riêng vẫn được bảo lưu đến mức không thể không gây ngạc
nhiên người mục kích, thí dụ như khi ăn, nhiều người không chỉ chan nước
mắm vào cơm mà còn dùng muỗng húp, dường như như thế mới “đủ đô”. Và,
đối với những người không quen ăn mặn có những món không cần phải chấm
nước mắm, nhưng nếu trên mâm không có chén nước mắm họ sẽ cảm thấy bữa
ăn mất ngon, bởi chén nước mắm là cái gì đó rất cần thiết, mà thiếu nó
chịu không được! Cho nên phải có, và theo thói quen, họ vẫn đưa miếng
đến chấm nhưng đó chỉ là một “động tác giả” vì hoàn toàn chưa dính một
chút nước mắm nào, vậy mà ngon – không làm động tác giả như thế họ sẽ
cảm thấy miếng ăn bị nhạt nhẻo!
Về nơi ăn, với những bữa cơm thường ngày
trong gia đình thì tùy điều kiện không gian căn nhà rộng hay hẹp mà bố
trí hợp lý: hoặc trên bàn, hoặc ngay trên sàn nhà. Nếu là bạn thân rủ
nhau nhậu chơi thì có thể trải đệm dưới gốc cây trong sân vườn hay ngoài
đồng, hay trên xuồng ghe tùy thích. Nhưng khi nhà có đám tiệc thì không
xuề xòa mà bày biện cỗ bàn rất nghiêm chỉnh trong tinh thần quý trọng
khách mời, tạo nên nét văn hóa rất riêng mà cũng rất chung, hài hòa giữa
phong tục truyền thống với đặc điểm văn minh vùng sông nước, hầu từng
bước hoàn thiện nền văn hóa ẩm thực độc đáo. Độc đáo vì đã biết tận
dụng, khai thác và chế biến “của trời cho” một cách kịp thời theo “đơn
vị tính” thời gian là “tháng”, “ngày” thậm chí “giờ”. Thật đúng như thế
nếu ai đó ở vùng đầu nguồn, có việc phải đi xa nhằm vào tháng cá mờm
hoặc cá linh non xuất hiện thì đành phải chịu nhịn, vì sau đó chừng một
tháng cá mờm đã lớn thành cá cơm, cá linh non cũng thế. Hoặc trong một
năm mới có được mấy ngày “cá ra” (nước trên đồng giựt cạn, cá rút xuống
kinh, mương để ra sông), nếu người sống nghề đánh bắt thủy sản không
chuẩn bị kịp mọi việc để chặn bắt cá thì xem như năm ấy bị thất thu
nguồn lợi lớn. Rau trái cũng không khác. Đặc biệt đối với rau, như bông
điên điển, rau dừa, rau muống… nếu hái muộn, từ lúc trời đã trưa nắng
đến chiều sẽ không giòn, mất ngon, chức năng kích thích thèm ăn, ngăn
chống lão hóa của rau do đó cũng bị giảm rất đáng kể.
Nguyễn Hửu Hiệp
Theo namkyluctinh.org
Theo namkyluctinh.org
0 nhận xét:
Đăng nhận xét